Đoàn Nhữ Hài


Đoàn Nhữ Hài (1280-1335), người làng Hội Xuyên, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), là một danh thần đời nhà Trần. Ông làm quan trải ba đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), Trần Anh Tông (1293-1314) và Trần Minh Tông (1314-1329), là người có năng lực hoạt động về ngoại giao và nội trị, lần lượt nắm giữ các chức vụ Ngự sử trung tán, Tham tri chính sự, Hành khiển, Thiên tử chiêu dụ sứ, Kinh lược Nghệ An. Ông hy sinh trong cuộc chinh phạt Chiêm Thành năm 1335

Muốn đánh giá đúng một con người thì thực sự phải dựa vào việc làm của họ. Nhưng để chọn được người có thể đảm đương được những công to việc lớn trong tương lai, một thủ lĩnh cần phải có con mắt xanh "anh hùng đoán giữa trần ai", không phải một cách vu vơ, vô cớ mà trên cơ sở những cảm nhận ban đầu qua những câu nói, qua cách ứng xử đời thường.

Những vị minh quân thời Trần như vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông... đã có được "con mắt xanh" ấy và vì thế, dưới thời họ trị vì, nhiều anh hùng và nhân sĩ đã quy tụ về triều đình, góp phần làm nên những sự nghiệp hiển hách. Câu chuyện về danh thần Đoàn Nhữ Hài sau đây là một minh chứng về linh cảm xuất sắc của những vị vua hiền về người tài trong thiên hạ.

Đoàn Nhữ Hài quê ở Gia Lộc, Hải Dương. Ông sinh năm Canh Thìn 1280. Tương truyền, ngay từ nhỏ ông là một người cực kỳ hiếu học, tay không lúc nào rời khỏi sách. Đến tuổi thiếu niên, lên kinh đô, Đoàn Nhữ Hài càng miệt mài sôi kinh nấu sử, lắm lúc đọc sách mải mê đến quên cả giời đất xung quanh.

Và chính trong một lần mê mải đọc sách như thế, ông tình cờ được gặp vua Trần Anh Tông và chính cuộc gặp gỡ ấy đã làm thay đổi đời ông một cách căn bản.

Chuyện xảy ra vào tháng 5 năm Kỷ Hợi 1299. Đó là khi vua Trần Anh Tông lên ngôi được khoảng 6 năm (từ 1293). Một hôm, Thượng hoàng (vua Trần Nhân Tông) từ phủ Thiên Trường về Thăng Long, lại đúng lúc nhân hôm rỗi việc, vua Trần Anh Tông cùng bề tôi uống rượu xương bồ tới say khướt.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), về tới kinh sư, Thượng hoàng thả bước đi dạo khắp các cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Khi cung nhân dâng bữa, không thấy vua Trần Anh Tông đâu, Thượng hoàng rất lấy làm lạ.

Tuy nhiên, lần này vì say quá nên khi cung nhân vào trong nội đánh thức, nhà vua vẫn không sao mở mắt ra được. Thế là Thượng hoàng nổi trận lôi đình, "lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội" (ĐVSKTT).

Đến giờ Mùi, vua Trần Anh Tông mới dứt cơn say, tỉnh dậy, hay chuyện mới lấy làm hoảng hốt. Nhìn quẩn nhìn quanh không thấy những bề tôi thân tín đâu cả. Vua lật đật ra khỏi cửa cung (lúc này cũng không có ai coi giữ), nhằm hướng sông Nhị cho đỡ bức bối, tới cửa chùa Tư Phúc, thấy một thư sinh mặt trẻ măng đang ngồi cắm cúi đọc sách. Thấy lạ, vua nói:

- Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu.

Đoàn Nhữ Hài đứng trước mặt vua, trong chốc lát đã soạn xong tờ biểu, lời lẽ đầy ân hận và cảm động. Vua bèn lấy thuyền nhẹ nhằm hướng Thiên Trường đi ngay, cho Đoàn Nhữ Hài theo mình. Tới rạng sáng hôm sau thì tới. Vua sai Đoàn Nhữ Hài vào phủ dâng biểu cho Thượng hoàng. Thượng hoàng giận, giả bộ không thèm để ý đến, mặc Đoàn Nhữ Hài cứ quỳ trước cửa điện.

Chiều hôm ấy thời tiết xấu, trời bỗng nhiên nổi mưa to gió lớn. Đoàn Nhữ Hài vẫn quỳ nguyên tại chỗ không nhúc nhích. Động lòng, Thượng hoàng sai nội nhân ra cầm tờ biểu tạ tội vào. Đọc xong, Thượng hoàng cho gọi vua Trần Anh Tông tới và nói:

- Trẫm xem lời lẽ trong tờ biểu rất hay, rất khéo, rất hợp lòng trẫm. Chắc không phải lời lẽ của con, vậy ai đã viết cho con vậy?

Vua Trần Anh Tông tâu, đó là Đoàn Nhữ Hài. Thượng hoàng gật gù tỏ ra tâm đắc rồi lại nghiêm mặt nói:

- Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?

Vua rập đầu tạ tội. Thượng hoàng cho gọi Đoàn Nhữ Hài vào, nhìn thấy gương mặt còn búng ra sữa của kẻ học trò lạ, tấm tắc khen. Rồi Thượng hoàng xuống chiếu cho Trần Anh Tông lại vẫn làm vua. Các quan cũng được về triều như cũ.

Trở về kinh sư, vua Trần Anh Tông ngay lập tức phong Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử Trung tán (chức quan đứng hàng thứ hai ở Đài Ngự sử, có nhiệm vụ can gián, đàn hặc nhà vua). Khi ấy ông chưa tới 20 tuổi. Một thư sinh trẻ tuổi chưa hề đỗ đạt gì, lại không phải hoàng thân quốc thích, mà lại được đưa lên một cương vị trọng yếu như vậy, bị thiên hạ ghen tị, đố kị thì cũng không có gì lạ.

Đoàn Nhữ Hài cũng hiểu điều này nên khi nghe có kẻ đàm tiếu, chế giễu ông, thì ông chỉ cười chứ không thèm nổi giận.

Là cận thần của vua, nhất cử nhất động gì trong hoàng cung đều biết rõ, Đoàn Nhữ Hài đã không lạm dụng chức vụ để lo tư lợi mà hết lòng phục vụ cho triều đình. Vì thế, vua Trần Anh Tông ngày càng tín nhiệm ông hơn. Tới năm Quý Mão 1303, Đoàn Nhữ Hài được phong làm Tham tri chính sự.

Cũng không phải tự nhiên ông được ngồi vào vị trí mới này mà trước đó ông đã lập được một công trạng quan trọng trong ngoại giao: chỉ dùng lý lẽ khôn ngoan mà tạo dựng được một bước tiến mới trong quan hệ với Chiêm Thành. Sách ĐVSKTT chép:

"Vua sai Nhữ Hài đi sứ Chiêm Thành. Nhữ Hài xin yết kiến Thượng hoàng ở chùa Sùng Nghiêm, núi Chí Linh, suốt ngày không được gặp. Một lát sau, pháp giá ra chơi. Nhữ Hài xin bái yết. Thượng hoàng nói chuyện với Nhữ Hài có đến một giờ. Khi trở về, Thượng hoàng bảo tả hữu:
- Nhữ Hài đúng là người giỏi, được Quan gia sai khiến là phải.

Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để lên trên án và nói với chúa Chiêm:

- Từ khi sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc sau.

Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ là lạy chiếu thư thì về lý là thuận, nhưng sứ tiết cũng không phải khuất".


LÝ LỊCH DI TÍCH

ĐỀN THỜ ĐOÀN NHỮ HÀI

 

I- Tên gọi:        

Tên gọi: Đền thờ Đoàn Nhữ Hài

                Đoàn Nhữ Hài sinh năm 1280 tại làng Hội Xuyên, huyện Tr­uờng Tân, Lộ Hồng Châu (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải D­ương). Ông là ng­ười có nhiều công lao giúp vua Trần trị vì đất n­ước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn Nhữ  Hài  mất năm 1335 trong một trận quyết chiến với quân xâm l­ược Ai Lao để bảo vệ bờ cõi phía Nam của Tổ quốc. Sau khi Đoàn Nhữ Hài qua đời, triều đình nhà Trần th­ương tiếc giao cho nhân dân vùng Nam Nhung (huyện Tư­ơng D­ương, tỉnh Nghệ An ngày nay) lập Đền thờ ngay tại nơi ông mất để quanh năm h­ương khói.

                Đến thời Lê (năm Cảnh H­ưng thứ 2) hậu duệ của Đoàn Nhữ Hài là Đoàn Viết Yến, lúc này làm tri huyện Quỳnh Lư­u thấy đền thờ của ngài nằm ở vùng đất xa xôi, khó khăn cho việc h­ương khói và thăm viếng của con cháu nên đã tâu xin phép nhà Vua cho chuyển Đền thờ của Đoàn Nhữ Hài về xây dựng trên vùng đất mà Đoàn Nhữ Hài và con cháu của ông đã sống trong thời kỳ ông làm kinh l­ược đại sứ Nghệ An, đồng thời lập Mộ chiêu hồn Ngài trong khuôn viên Đền thờ tại làng Nguyệt Tiên - xã Diễn An - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An, tồn tại cho đến ngày nay.

                 Hàng năm, cứ đến ngày 12/3 âm lịch, nhân dân và con cháu dòng họ Đoàn quây quần về đây tế lễ, t­ưởng niệm. Vì thế, ngoài tên gọi trên, nhân dân còn quen gọi là Nhà thờ họ Đoàn.


Lịch sử đấu tranh dựng n­ớc và giữ n­ớc 4000 năm

                 Đoàn Nhữ Hài sinh năm 1280 tại làng Hội Xuyên huyện Tr­ờng Tân, lộ Hồng Châu (nay là huyện gia lộc, tỉnh Hải D­ơng). Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Văn Võ song toàn. Cha là Đoàn Phúc Trung từng làm t­ớng d­ới quyền chỉ huy của Tiết chế H­ng Đạo đại v­ơng Trần Quốc Tuấn, đã trực tiếp tham gia trận đánh quyết chiến chiến l­ợc nh­: Vân Đồn 1281, Bạch Đằng 1288....góp phần đánh bại quân xâm l­ợc nhà Nguyên, đ­a lại dộc lập cho dân tộc.

                 Tuổi nhỏ, Đoàn Nhữ Hài đã chứng kiến cảnh n­ớc nhà bị giặc ngoại xâm tàn phá, tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Đại Việt đánh bại quân xâm l­ợc Nguyên Mông. Ông sớm bộc lộ t­ chất thông minh, thiên t­ đĩnh ngộ. Đoàn Nhữ Hài rất ham mê học tập, tính tình lanh lợi hoạt bát, thông làu kinh sử, sức học và tài năng của ông v­ợt xa các bạn cùng trang lứa. Với mong muốn rèn luyện thành tài để góp nhiều công sức, tài năng của mình cho đất n­ớc. Thấy con có chí lớn, lại chăm lo học tập Đoàn Phúc Trung gửi con trai mình lên kinh đô Thăng Long học tập.

                 Sau 4 năm miệt mài kinh sử ở kinh thành Thăng Long, tài năng của Đoàn Nhữ Hài càng bộc lộ rõ và sớm khẳng định . Vì vậy, ông đ­ợc vua Trần Anh Tông phong làm Ngự sử trung tán lúc ông vừa tròn 20 tuổi. Về sự kiện này sách Đại Việt sử ký toàn th­ và Đại việt sử ký tiền biên chép nh­ sau:

                 " Tháng 5, Kỷ Hợi (H­ng Long năm thứ 7 - 1299) lấy Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Bấy giờ, Th­ợng hoàng từ Thiên tr­ờng về Kinh s­, mọi ng­ời trong ngoài đều không ai biết. Vua Trần Anh Tông uống r­ợu x­ơng bồ say quá. Th­ợng hoàng dạo xem khắp cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Ng­ời trong cung dâng cơm, nhìn khắp nơi không thấy vua, th­ợng hoàng tức lắm bèn hỏi. Cung nhân vội vàng đánh vua vẫn không tỉnh. Th­ợng hoàng cả giận lập tức xa giá trở lại Thiên tr­ờng xuống chiếu cho trăm quan hôm sau phải đến để điểm danh. Trời về chiều vua Anh Tông mới tỉnh. Cung nhân mang việc đó tâu lên vua sợ lắm, đi bộ ra khỏi cung, ng­ời hầu cũng không kịp theo, qua chùa T­ Phúc gặp học sinh là Đoàn Nhữ Hài, vua bèn hỏi, Nhữ Hài vội vàng phủ phục xuống đất th­a " Thần vì mãi học vào lầm đây thôi". Vua Trần Anh Tông mang Đoàn Nhữ Hài vào phòng và bảo rằng: " Ta vừa rồi bị say r­ợu mang tội với Th­ợng Hoàng. Nay ta muốn dâng biểu tạ tội, ng­ơi hãy thảo giúp ta". Đoàn Nhữ Hài vâng chỉ thảo xong ngay, vua lập tức dùng thuyền nhẹ ra đi cho Nhữ Hài theo. Ngay đêm ấy sang Thiên Tr­ờng, sáng sớm thì đến phủ, sai Đoàn Nhữ Hài vào dâng biểu. Th­ợng Hoàng hỏi" Đó là ng­ời nào". Ng­ời hậu cận th­a " Đó là ng­ời của nhà Vua dâng biểu". Th­ợng hoàng không trả lời. Trời đã về chiều m­a to, gió lớn kéo đến, Nhữ Hài vẫn quỳ mà không di chuyển. Th­ợng Hoàng hỏi " Ng­ời ở trong sân có còn đó nữa không?" rồi sai ng­ời nhận biểu để xem, thấy từng từ, từng ý đều rất cầu khẩn bèn triệu Vua vào dụ rằng : " Trẫm còn có con khác cũng có thể nối ngôi, trẫm còn sống mà đẫ nh­ thế, sau này sẽ ra sao? " Vua cúi đầu lạy tạ. Th­ợng hoàng hợp ý Trẫm, bèn ban chiếu cho quan gia trở về ngôi Vua, trăm quan lại đ­ợc về triều nh­ cũ " (1)

                 (1) Đại Việt sử ký toàn th­ - tập 2 trang 75 NXB KHXH - Hà Nội 1967

                 Và Đại Việt sử ký tiền biên - trang 392-393 NXB KHXH - Hà Nội 1997

                 Thấy Đoàn Nhữ Hài là một ng­ời tài cao học rộng, m­u l­ợc hơn ng­ời. Năm 1303, Vua Trần Anh Tông cử Ông đi sứ Chiêm Thành. Chuyến đi sứ của Đoàn Nhữ Hài đã khẳng định một cách vững chãi thế của n­ớc Đại Việt, xóa bỏ đ­ợc tục lễ cũ  - các sứ thần Việt Nam  sang sứ Chiêm Thành không phải lạy tạ Vua Chiêm.

                 " Tr­ớc đây n­ớc ta sang Chiêm Thành đều phải vái Quốc V­ơng tr­ớc, sau mới mở Chiếu th­. Khi Đoàn Nhữ Hài đến, nghĩ kế để dần dần thay đổi, bèn đến thẳng án kinh đặt chiếu th­ và nói với vua Chiêm " Từ khi Sứ thần của triều đình, đem chiếu th­ của thiên tử đến, phải xa cách Thiên tử lâu ngày, nay mở Chiếu th­ nh­ thấy Thiên tử, thần lậy chiếu th­ rồi sau mới kính đọc". Dù đang ở tr­ớc mặt vua Chiêm nh­ng vẫn lấy tiếng là lậy chiếu th­ để tỏ tiết tháo bất khuất của sứ thần ".

                 Thời gian ở sứ  Chiêm Thành chỉ một năm. Nhờ thông minh, tận tình và có ph­ơng pháp, kế sách hay nên Đoàn Nhữ Hài không những hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của triều đình giao cho mà còn phá hủy đ­ợc tục lệ cũ, tạo ra tục lệ mới, làm tiền lệ cho những ng­ời sau này sang sứ.

                 Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đi sứ ở Chiêm Thành, về n­ớc Đoàn Nhữ  Hài bái kiến Th­ợng hoàng Trần Nhân Tông tâu trình toàn bộ kết quả chuyến đi sứ của mình, Th­ợng hoàng khen ngợi Đoàn nhữ Hài " Nhữ Hài thực là ng­ời tài giỏi, đ­ợc quan gia sai khiến là phải". Ghi nhận thành quả, công trạng của Đoàn Nhữ Hài, vua Trần Anh Tông cho Ông làm quan Tham tri  chính sự.

                 Quý trọng tài năng của Đoàn Nhữ Hài, tháng 12 năm Giáp Thìn (1304) vua Trần Anh Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài chức Tri khu mật viện sự. Đây là chức vụ cao trong triều đình, th­ờng chỉ bổ dụng ng­ời tôn thất trong hoàng tộc nắm giữ, nh­ng thấy Đoàn Nhữ Hài thực sự tài giỏi nên vua Trần mới bổ nhiệm ông giữ chức vụ này. Sách Đại Việt sử ký toàn th­ chép : " Cho Đoàn Nhữ Hài làm Tri mật viện sự, Vua đối với ng­ời tôn thất nh­ bảo h­ng V­ong (không rõ tên) rất là thân yêu, mà không ủy cho làm việc chính sự, vì là không có tài làm đ­ợc. Còn Đoàn Nhữ Hài là một học trò thôi, nh­ng vì có tài nên không ngại lại ủy dụng mau quá" (1)

           (1)- Đại Việt sử ký toàn th­ - tập 2 trang 95 - NXB KHXH - Hà Nội 1967

                 Đ­ợc vua Trần tin yêu, trọng dụng, mọi ng­ời quý mến, Đoàn Nhữ Hài càng phấn khởi, cố gắng đem hết tài trí, năng lực phục vụ cho đất n­ớc.

                 Tháng sáu năm Bính Ngọ thứ 14 (1306), Th­ợng Hoàng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (vua n­ớc Chiêm Thành). Chế Mân dâng đất 2 châu Ô, Rý làm lễ vật dẫn c­ới. Năm Đinh Mùi thứ 15 (1307), Nhà Trần đổi 2 châu Ô, Rý thành Châu Thuận và Châu Hóa sát nhập vào n­ớc Đại Việt. Ng­ời các Châu ấy không chịu theo, nổi lên chống lại mệnh triều đình. Vua Trần Anh Tông sai Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên nhân dân 2 châu Thuận, Hoá đó. Bằng kế sách mềm dẻo, lời lẽ thuyết phục thấu tình đạt lý - Đoàn Nhữ Hài tiến hành cấp ruộng đất cho nhân dân, giảm tô thuế 3 năm, lấy ng­ời sở tại bổ làm quan lại, Nhân dân 2 châu tin t­ởng vào Đoàn Nhữ Hài yên ổn làm ăn, ổn định cuộc sống và quy phục lại triều đình.

                 Một lần nữa, tài năng của Đoàn Nhữ Hài đ­ợc khẳng định và đ­ợc triều đình nhà Trần tin dùng. Tháng 12 năm Nhâm Tý (1312), vua Chiêm Thành là Chế Chí phản trắc. Vua Trần thân chinh đi đánh Chiêm Thành lấy Đoàn Nhữ Hài làm thiên tử chiêu dụ sứ. Nhận trọng trách nhà Vua giao, Đoàn Nhữ Hài bí mật tiếp cận với trại chủ Câu Chiêm (một cận thần thân tín của Chế Chí) - thuyết phục Câu Chiêm dụ Chế Chí ra hàng Quân Trần. Lý lẽ của Đoàn Nhữ Hài đã thuyết phục đ­ợc Câu Chiêm, Câu Chiêm đã bàn bạc với Chế Chí, Chế Chí nghe theo đem gia thuộc theo đ­ờng biển ra hàng. Với tài năng ngoại giao, m­u trí dũng l­ợc, Đoàn Nhữ Hài đã dẹp quân Chiêm - giữ yên bờ cõi n­ớc nhà mà không cần phải dùng đến một mũi tên nào. Đó là công lao lớn của Đoàn Nhữ Hài (1)

           (1) Đại Việt sử ký tiền biên - trang 413 - NXB KHXH Hà Nội 1867

                 Thấy Nghệ An là một vùng đất có vị trí chiến l­ợc quan trọng, giáp biên giới Chiêm Thành, th­ờng bị quân Chiêm dòm ngó, quấy nhiễu. Vua Trần giao cho Đoàn Nhữ Hài quản lĩnh 2 triệu quân Thần Sách, Thần Vũ kiêm Kinh l­ợc sứ Nghệ An. Lĩnh mệnh nhà Trần, Đoàn Nhữ  Hài dẫn quân đóng tại mảnh đất " Nguyệt Tiên". Trong thời gian thực hiện nhiệm vụ - Kinh l­ợc đại sứ  Nghệ An, Đoàn Nhữ Hài thấy mảnh đất mà mình đang đóng quân là một vùng đất có vị trí đẹp, thuận lợi cho việc xây dựng vị trí chiến l­ợc ....nên ông đ­a gia nô, con cháu vào định c­, khai khẩn lập làng trên mảnh đất " Nguyệt Tiên " này.

                 Năm ất Hợi 1335, quân Ai Lao vào xâm l­ợc đất Nam Nhung thuộc điạ phận Nghệ An. Th­ợng Hoàng thân chinh đem quân đi đánh, lấy Đoàn Nhữ Hài làm Đốc t­ớng, các quân thứ đều phải chịu mệnh lệnh của Đoàn Nhữ Hài.

                 Vùng đất Nam Nhung (xã Bồng Khê, huyện Con Cuông ngày nay) hiểm trở, sông ngòi nhiều. Đoàn Nhữ Hài do chủ quan về số l­ợng của quân Ai Lao đóng giữ ở ấp Nam Nhung ít và yếu , nên ông chỉ sử dụng quân Thần Vũ và quân Nghệ An ra trận. Trận đánh xảy ra khá gay gắt quyết liệt, mây mù che tối, quân giặc bố trí quân lính nhiều đã phục sẵn hai bên bờ sông: lực l­ợng lớn, ng­ời đánh ập các h­ớng lại. Sau trận giao tranh quyết liệt, quân của Đoàn Nhữ Hài thua trận, rơi xuống n­ớc quá nửa. Đoàn Nhữ Hài tử Trận (1)

           (1) Đại Việt sử ký tiền biên - trang 433, 434- NXB KHXH Hà Nội 1967

                 Nghe tin Đoàn Nhữ Hài mất, tiếc th­ơng - Vị anh hùng trung nghĩa, tài ba đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự trung h­ng đất n­ớc. Triều Đình nhà Trần tiếp tục củng cố lại lực l­ợng để tiến công, đánh bại quận giặc, thu phục đất đai, chiêu dụ đ­ợc nhân dân Làng Củng - huyện T­ơng D­ơng (xã Bồng Khê - huyện con Cuông ngày nay) làm lễ tế linh hồn Đoàn Nhữ Hài và lập Đền thờ Ông tại làng ven sông để quanh năm h­ơng khói.

                 Đoàn Nhữ Hài là một ng­ời thông minh, chính trực, tài giỏi, văn võ kiêm toàn. Trải qua 36 năm làm quan phụng sự 3 triều vua nhà Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông), Ông đã góp sức mình vào quá trình đấu tranh và bảo vệ bờ cõi n­ớc nhà, đồng thời ông đã nêu lên một tấm g­ơng sáng về lòng trung quân ái quốc.

                 Ngoài đền thờ chính ở làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An, huyện Diễn Châu, còn có đền thờ Đoàn Nhữ Hài ở một số làng thuộc huyện Gia Lộc - Hải D­ơng: Hội Xuyên, Tăng Th­ợng, Phó Trào.... Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những đền thờ này còn rất ít ỏi. Đền thờ Đoàn Nhữ Hài ở làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An - huyện Diễn Châu là một trong số ít đền còn lại đ­ợc nhân dân và con cháu dòng họ Đoàn lập để t­ởng nhớ đức vị danh tài của đất n­ớc.

                Đền thờ Đoàn Nhữ Hài là nơi thăm viếng, tế lễ hàng năm của con cháu, nhân dân địa ph­ơng nói riêng và du khách thập ph­ơng nói chung. Nó đáp ứng đ­ợc nhu cầu văn hóa tâm linh mang đậm nét đẹp của văn hóa truyền thống đạo lý " Uống n­ớc nhớ nguồn" của nhân dân Việt nam .

                 Từ khi có ngôi Đền này, vùng đất này đã ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc nh­: trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền thờ là địa diểm hội họp của nhân dân xã Diễn An - nơi che chở cho những chiến sĩ cộng sản  hoạt động bí mật trong thời kỳ cách mạng 1930- 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh để cùng nhân dân cả n­ớc đấu tranh dành độc lập dân tộc. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu n­ớc, Đền thờ còn là nơi tập trung huấn luyện dân quân và là nơi chứng kiến nhiều trận đánh trả máy bay Mỹ của Tự vệ công ty sữa chữa cơ khí 4.

IV- Loại hình di tích:

                 

           Đền thờ Đoàn nhữ Hài là công trình t­ởng niệm đ­ợc nhân dân xây dựng lên để nhớ ơn một vị anh hùng tài năng - Ng­ời có công đánh giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi n­ớc nhà.

                 Đền thờ đ­ợc xây dựng ở vị trí đẹp, thoáng, ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử, nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh tế, sắc sảo với nhiều đề tài sinh động, có sức cuốn hút khách tham quan.

                 Vì vậy, di tích đền thờ Đoàn Nhữ  Hài là loại hình di tích: Lịch sử văn hóa.

 

V- Khảo tả di tích:

                 

           Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 2300 m2, thuộc cánh đồng Sò làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An- huyện Diễn Châu - Tỉnh Nghệ An; ngoảnh mặt về phía chính Tây.

                 Xung quanh Đền là v­ờn phi lao quanh năm xanh tốt, tạo bóng mát cho di tích. Cách 200 về phía đông là con đ­ờng Quốc lộ 1A, ngày đêm nhộn nhịp ng­ời và xe cộ qua lại. Cách đền khoảng 3000m (3 km) về phía Nam là đền Cuông, nơi thờ Thục An D­ơng V­ơng - Vị anh hùng dân tộc đã công lập nên n­ớc Âu Lạc, đ­ợc xây dựng d­ới chân núi Mộ Dạ. Phía tr­ớc đền là những cánh đồng màu mỡ, xóm làng Trù Phú, xa hơn là dãy núi Mụa Chân Tiên trải dài nhấp nhô và làng mạc yên vui của làng Nguyệt Tiên nh­ một bức bình phong chắn gió - Bảo vệ sự bình yên cho ngôi đền.

                 Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc xây dựng ở vị trí địa lý cảnh quan đẹp, gần trục đ­ờng giao thông chính, thuận lợi cho du khách tham quan và thăm viếng di tích.

                 Di tích đền thờ Đoàn Nhữ Hài gồm có các công trình chính sau: Sân - V­ờn đền, Bái đ­ờng, Hậu cung, Tả vu và Hữu vu.

 

1. Vu­ờn và sân đền:

                 V­ờn đền thờ Đoàn Nhữ Hài rộng, bằng phẳng, đ­ợc trồng các loại cây xanh nh­: đa, ph­ợng, bàng, tre, phi lao, mít...làm cho khung cảnh v­ờn hài hòa với cảnh quan của làng Nguyệt Tiên, đồng thời tạo bóng mát và điều hòa môi sinh cho toàn khu vực di tích.

                 Sân đền có diện tích 112m2 (dài 22,4m; rộng 5m ), đ­ợc láng bằng vữa tam hợp. Tr­ớc sân đền xây hai ngôi mộ (mộ bà Tổ cô họ Đoàn và mộ Đoàn Nhữ Hài); giữa sân trồng bụi trầu quấn thân cây cau. Theo quan niệm dân làng, trầu cau không chỉ đ­ợc làm vật phẩm trong những ngày sóc vọng, ngày rằm ... tại đền, mà còn biểu t­ợng cho sự chung thủy, sắt son của ng­ời Việt trong cuộc sống.

 

2. Mộ Đoàn Nhữ Hài và mộ bà Tổ cô:

a). Mộ Đoàn Nhữ Hài:

                 Theo sử cũ cho biết, Đoàn Nhữ Hài hy sinh trong trận chiến với quân Ai Lao ở ấp Nam Nhung (1335). Sau khi Đoàn Nhữ Hài mất, vua Trần làm lễ tế linh hồn ông bên bờ sông Lam và cho nhân dân lập đền thờ ở làng Củng, huyện T­ơng D­ơng (nay là xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An) để muôn đời t­ởng nhớ, biết ơn ng­ời anh hùng đã hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ tổ quốc.

                 Về sau, năm thứ 2 đời Lê Cảnh H­ng, tri huyện Quỳnh L­u là Đoàn Viết Yến, là hậu duệ của Đoàn Nhữ Hài đã chuyển bài vị, lập đền thờ và đắp mộ chiêu hồn Đoàn Nhữ Hài ngay trên mảnh đất mà Ngài và hai hiệu quân thần Sách - Thần vũ đóng quân để kinh l­ợc đại sứ Nghệ An. Nơi đó gọi là làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An - huyện Diễn Châu- tỉnh Nghệ An.

                 Mộ Đoàn Nhữ Hài đắp tr­ớc sân, đối diện với nhà bái đ­ờng ở phía Đông. Mộ đ­ợc đắp bằng đất và sò bổi, xung quanh ghép sò khối thành hình chữ nhật có kích th­ớc: dài 2,3 m; rộng 2,1 m;  cao 0,25 m. phía chân mộ xây bức chắn cao 1m rộng 2,0m uốn hình cung, bằng gạch, vôi vữa. phía tr­ớc đặt 1 l­ h­ơng bằng sứ để con cháu và nhân dân thắp h­ơng, t­ởng niệm Ngài khi đến viếng thăm di tích.

b). Mộ bà Tổ cô:

                 Theo lời kể của các cụ tiền lão trong làng Nguyệt Tiên, thì bà Tổ cô có tên là Đoàn Thị Thủy. Bà sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nguyệt Tiên này. ở tuổi tr­ởng thành, Bà Thủy không lấy chồng, không lập gia đình riêng, Bà đã cống hiến cuộc đời mình cho việc Hộ sinh - Giúp đỡ, chăm sóc các phụ sản ở thôn xã mình. Sau khi Đoàn Thị thủy mất, đ­ợc nhân dân và con cháu chôn cất đắp mộ cho Bà trong khuôn viên đền thờ Đoàn Nhữ Hài làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An- huyện Diễn Châu- tỉnh Nghệ An.

                 Mộ Đ­ợc đắp tr­ớc nhà Hữu vu. Về kiến trúc, chất liệu gần giống nh­ mộ Đoàn Nhữ Hài. Mộ có kíh th­ớc: dài 2,4 m; rộng 1,6 m; cao 0,5 m. ở chân mộ xây t­ờng chắn cao 1,1 m, phía tr­uớc đặt lu­ hu­ơng để con cháu, nhân dân thắp hu­ơng t­uởng niệm.

 

3. Nhà bái đ­uờng:

                 Nhà bái đ­uờng đ­ợc xây dựng trên mặt bằng có diện tích gần bằng 53 m2, gồm 3 gian 2 vì. Phía tr­ớc và sau để trống, hai đầu xây t­ờng bít đốc. Nền nhà bái đ­ờng đ­ợc đắp cao hơn sân 0,42m, láng bằng vữa tam hợp; thềm đ­ợc xây dựng bằng gạch chỉ, gia trát xi măng tạo thành tam cấp. Mái nhà lợp bằng ngói âm d­ơng. Hệ thống bờ nóc đ­ợc đắp nổi hình mặt hổ phù.

                 Phía tr­ớc thềm nhà, hai đầu hồi xây 2 cột quyết bằng gạch chỉ, gia trát vữa tam hợp. Mỗi cột tính từ lồng đèn xuống mặt đất là 3,3m. Thân trụ là một hình khối có kích th­ớc 2,4m x 0,4 m x 0,4m. Mặt tr­ớc và trong của thân cột, xung quanh đắp gờ nổi sắc nét, mặt giữa thân cột hơi lõm xuống để trang trí hệ thống câu đối.

                 Hai bên cột: Mặt tr­uớc ghi câu đối bằng chữ Hán màu đen:

                                                " Mộc phát thiên chi do nhất bản

                                                Thủy l­uu vạn phái tổng đồng nguyên"

           Nghĩa là:

                                                " Cây nứt nghìn nhánh bởi một gốc

                                                N­uớc chảy muôn giòng tóm một nguồn"

           Mặt trong thân cột:

                                                " Đoàn tộc T­uớng truyền l­uu Quốc sử

                                                Tôn tử văn võ kế Gia phong"

           Nghĩa là:

                                                " Họ Đoàn luôn có T­uớng đ­uợc ghi sử sách

                                                Con cháu luôn trau dồi văn võ nối nghiệp"

Đỉnh cột quyết đ­ợc xây hình lồng đèn cách điệu, bốn mặt có kính.

               

                  Về kết cấu, khung nhà bái đ­ờng đ­ợc làm bằng gỗ lim, hệ thống cột, 4 cột quânvà 2 cột hiên (2,4 m  x 0,22 m x 0,22 m ) đỡ 2 cổ nghé sau, tạo sự vững chắc cho ngôi đền. Nối các kèo, xà hạ bằng các mộng, sàm vừa chắc, vừa khít.

                 

                 Về kiểu dáng, nhà bái đ­ờng đ­ợc làm theo kiểu tiền trụ, vì kèo thiết kế theo kiểu kẻ chuyền, giá chiêng. Hệ thống phủ đầu, hoành đ­ợc trải đều hai mái (tr­ớc 11 đ­ờng, sau 8 đ­ờng ). Vì các thân xà, hạ đ­ợc vát theo kiểu sống khế, 2 phần chính nối phần chuyền chạm đầu rồng và dây hoa cách điệu. Một số xà, hạ khác đ­ợc chạm nổi các vân mây, dây hoa. Nét chạm sắc, mềm mại, uyển chuyển trông thật sống động, tạo cho bộ khung nhà trông nhẹ nhàng, thanh thoát. Nhà bái đ­ờng của đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc coi là một trong số ít công trình kiến trúc bằng gỗ quý, cỗ có cham trổ đẹp còn đ­ợc l­u giữ trên mảnh đất " Nguyệt Tiên" này.

 

                . Bài trí nội thất:

                               

                Nhà bái đ­ường để trống

 

4. Nhà hậu cung:

                 Bái đ­ờng và Hậu cung đ­ợc ngăn cách bởi sân lộ thiên, có chiều dài bằng nhà bái đ­ờng (7,4m); rộng 2,95m, sâu 0,22m, đ­ợc láng bằng vữa tam hợp tạo sự thông thoáng và chống xói mòn.

               

                  Nối nhà bái đ­ờng và hậu cung, hai bên bức t­ờng giắc xây bằng gạch - vôi vữa, có kích th­ớc: 3,2 m x 0,3 m x 0,3 m. Mặt tr­ớc thân cột đ­ợc nhấn câu đối:

                                                " Tiền thái tổ môn kinh phát tích

                                                   Hậu tổ tiên phủ diễn khai cơ"

                  Nghĩa là:

                                               

                                                   " Tr­ớc gốc tổ kinh môn nơi phát tích

                                                   Về sau đến Diễn châu lập làng khai cơ"

               

                 Đỉnh cột đ­ợc gắn t­ợng nghê nằm trên hoa sen cách điệu, trong t­ thế chầu vào đền trông thật sống động.

                 

                 Nhà Hậu cung đ­ợc xây dựng trên mặt bằng có diên tích gần bằng 28 m2 (dài 6,0m ; rộng 4,65 m ) gồm 3 gian 2 hồi. Ba phía xây t­ờng. Phía tr­ớc đóng cửa ra vào ở 3 gian. Cửa đ­ợc đóng theo kiểu ván dật, ngạch cửa đ­ợc xây bằng gạch, vôi vữa với độ cao 0,1 m. phía trên ng­ỡng cửa gian giữa đ­ợc đắp nổi bức cuốn th­ nhấn 3 chữ Hán màu đen viết lệch nhau, chữ giữa cao hơn, hai chữ bên bằng nhau: " Đoàn thần từ", nghĩa là "Đền thờ họ Đoàn ". Hai bên, phải - trái vẽ hai con ph­ợng cách điệu trong t­ thế đang bay, đỡ bức cuốn th­. Nét vẽ uyển chuyển, mềm sắc tạo hình t­ợng con chim ph­ợng rất sống động. ẩn sau bức cuốn th­ là 2 cành đào đang nở hoa trông thật tinh khiết.

                 Phía trong bức t­ờng ở hai hiên nhà đ­ợc đắp nổi hình t­ợng hai con chim hạc đứng trên l­ng rùa, miệng hạc ngậm bông hoa sen. Hạc ở t­ thế đứng thẳng, đầu v­ơn cao. Rùa ở t­ thế đang bò, đầu v­ơn dài ra phía tr­ớc.

               

                  Mặt ngoài cột trụ nối gian giữa với hai gian bên đ­ợc kẻ khuôn màu đỏ, phía trong tô vàng kín, viết hai câu đối màu đen có nội dung:

                                               

                                                " Lịch đại trần triều phong t­ớng

                                                 Kim triều Việt sử tặng võ quan"

 

Nghĩa là:

                                                " Đời vua nhà Trần đ­ợc phong t­ớng

                                                   Nay sử sách còn ghi lại quan võ"

               

                  Nền nhà Hậu cung đ­ợc đắp cao hơn sân lộ thiên 0,23 m, láng bằng vữa tam hợp. Mái nhà lợp bằng ngói âm d­ơng. Hệ thống bờ nóc đ­ợc đắp nổi hình L­ỡng - long - triều - Nguyệt. Con rồng ở mái nhà có phần chân khỏe, bám chắc vào nóc mái, thân rồng uốn làm 3 khúc quấn trong các giải mây. Đầu rồng dữ tợn, ngẩng cao chầu vào mặt nguyệt tròn đ­ợc viền các tia hào quang lấp lóa. Khung nhà Hậu cung làm bằng gỗ lim, hệ thống cột (4 cột và 2 cột áp vào t­ờng ) đ­ợc làm theo kiểu tứ trụ, vì kèo thiết kế theo kiểu chuyền chụp. Vì các thân xà, hạ đ­ợc vát theo kiểu sống khế, 2 đầu d­ xà phía sau chạm đầu rồng ngoảnh mặt vào nhau, nghệ thuật chạm khắc điêu luyện, đ­ờng nét sắc sảo tạo cho con vật nhẹ nhàng, sống động, làm tăng sự cổ kính cho ngôi nhà.

 

                 . Bài trí nội thất:

               

                  Nhà Hậu cung là nơi thờ chính vị danh thần tài hoa Đoàn Nhữ  Hài. Bài trí trong nhà Hậu cung nh­ sau:

               

                 - Gian bên phải: đ­ợc bài trí 01 h­ơng án xây bằng vữa tam hợp, dài 1,33 m; rộng = cao = 0,85m . Hình dáng giống nh­ h­ơng án gỗ. H­ơng án đ­ợc sơn màu nâu thẫm, mặt tr­ớc đ­ợc đắp gờ nổi, tạo chỉ màu đỏ. Trên h­ơng án, phía trên xà treo bức cữa võng bằng nỉ màu đỏ, đ­ợc điểm hình l­ỡng, long, nguyệt dệt nổi. phía trên thêu 3 chữ Hán " Đức L­u Quang". Nét thêu đẹp, hoa văn nổi trông thật sinh động và uy nghiêm.

 

                 - Gian giữa: Đặt một bàn thờ 2 cấp xây bằng vữa tam hợp, đ­ợc sơn màu để làm nổi các đồ thờ:

               

                  Bàn thờ ở phía tr­ớc cao 0,48 m; rộng 0,85 m, sơn màu trắng, trên bàn thờ bày l­ h­ơng, đôi cọc sáp, đôi ống h­ơng, mâm chè, 3 đài trãn đều bằng gỗ sơn son; 2 lọ hoa bằng sứ....làm ph­ơng tiện cho du khách bày các vật phẩm tiến cúng.

               

                  Bàn thờ phía sau cao hơn (cao 1,3 m; rộng 0,67 m) đ­ợc sơn màu vàng thẫm, ở phía tr­ớc bày 01 mâm ngũ quả, 03 đĩa trãn gỗ sơn son thếp vàng. Nửa phần còn lại phía sau, đặt 01 long ngai bằng gỗ, sơn son thếp vàng rực rỡ, chạm khắc tinh xảo và 01 đôi kiếm gỗ sơn son.

               

                  Nhìn tổng thể, long ngai đ­ợc cấu tạo gồm 02 phần chính. Long ngai có kiểu dáng giống nh­ chiếc ghế ngồi, long ngai đ­ợc trang trí sơn son thếp vàng tuyệt đẹp ....phần chân, tạc theo kiểu chân quỳ có tỉa hoa văn. Phần thân trang trí vân mây, dây hoa, sóng n­ớc chảy dọc ôm lấy bài vị thờ Đoàn Nhữ Hài bằng chữ Hán " Th­ợng thái thỉ tổ lịch triều gia tặng sắc phong Ngự sử trung tán, chính sự khu mật viện đắc mệnh đại sứ Chiêm thành lập công đệ nhất hạng Trần triều đại sắc phong Thần vũ, Thần sách kiêm kinh l­ợc sứ Nghệ An đốc t­ớng chỉ huy toàn quân. Sắc phong đại đô đốc Đoàn quý công húy Nhữ Hài, Hiệu Đoan túc anh dũng t­ớng quân thần vị"

               

                  Bệ ngai đ­ợc tạc theo kiểu chân quỳ. Các mặt chính của phần bệ đ­ợc chia ô chạm lộng hình l­ỡng - long - triều - nguyệt, chim ph­ợng và dây hoa. Thân ngai bao gồm tay ngai và các con đỡ. Tay ngai đ­ợc mô phỏng bàn tay của thần đang đặt trên tay của một chiếc ghế trong t­ thế ngồi oai vệ. Hai cánh tay uốn cong hình cung, bàn tay đ­ợc cách điệu bằng 02 đầu rồng v­ơn cao. Để tránh sự đơn điệu bằng 02 đầu rồng v­ơn cao. Để tránh sự đơn điệu trong cách tạo dáng, các con tiện tròn nâng đỡ tay ngai đều đ­ợc chạm nổi hoa văn....

                 

                 Phía trên xà hạ treo bức cữa võng giống nh­ bức cữa võng gian bên phải.

                 

                 D­ới xà hạ, phía t­ờng treo tờ bài biểu của Đoàn Nhữ Hài  viết giúp vua Trần Anh Tông đ­ợc con cháu sao lại sau khi lập đền, tờ bài biểu bằng nỉ màu đỏ cũ, nội dung đ­ợc viết bằng chữ hán màu đen.

               

                 - Gian trái: Bài trí giống gian phải.

 

5. Nhà Hữu Vu:

                  Nhà Hữu vu của đền thờ Đoàn Nhữ Hài đặt dọc, nằm cách nhà bái đ­ờng khoảng 2 m về phía bắc.

                 Nhà Hữu vu đ­ợc xây trên mặt bằng có diện tích gần bằng 53 m2; dài 8,4 m; rộng 5,5 m ) gồm 3 gian 4 vì, ngoảnh mặt về phía tây. Mái nhà đ­ợc kết cấu theo kiểu mái chùa, lợp bằng ngói âm d­ơng. Bờ nóc đ­ợc xây bằng gạch chỉ, gia trát vôi vữa với độ cao 0,385 m; hai bờ dãi mái tr­ớc đựợc đắp nổi đầu rồng v­ơn cao. Nền nhà láng bằng xi măng. Bờ t­ờng 3 phía ( Nam Bắc, Đông) xây thẳng để tránh n­ớc m­a tạt vào đền, bờ t­ờng phía Nam mở cửa nách.

               

                  Mặt tr­ớc nhà Hữu vu mở 03 lối cửa ra vào, ngăn cách nhau bởi bức t­ờng và cột gỗ lim, ngạch cữa xây bằng gạch chỉ, gia vôi vữa tạo thành

th­ng cửa ván dật.

                 

                 Khung nhà hữu vu làm bằng gỗ lim, hệ thống cột (2 cột cái, 8 cột quân), các bộ phận của khung nhà đựợc bào trơn, đóng bén, sàm mộng kín chắc.

                 Nhà Hữu vu đ­ợc làm theo kiểu tứ trụ, vì kèo thiết kế theo kiểu ván mê, chạm nổi hình long, ly, quy, ph­ợng....trên khuông vì nhấn chữ Hán màu đen đã bị mờ.

               

                 . Bài trí nội thất:

               

                  Nhà hữu vu đặt dọc, lòng nhà không rộng nên bàn thờ và đồ tế khí đ­ợc bài trí ở gian trong. Gian ngoài để trống tạo lối đi lại cho ng­ời bảo vệ đền và du khách vào - ra thắp h­ơng, t­ởng niệm.

               

                 - Gian giữa: Đặt 01 h­ơng án bằng gỗ sơn son thếp vàng đã cũ. Trên h­ơng án đ­ợc bày 01 l­ h­ơng gỗ, chén thờ....làm nơi hành lễ cho du khách vào gian trong thắp h­ơng, phúng viếng.

               

                  - Gian trong: Là nơi thờ thần tổ, cụ tổ, bà tổ... nên đ­ợc bài trí nh­ sau:

                 

                 + ở giữa đ­ợc đặt 01 bàn thờ 03 cấp bằng gỗ, dài 1,22 m; rộng 0,74 m. Tầng trong cao 0,85m; tầng giữa cao 0,77 m; tầng ngoài cao 0,74 m đ­ợc sơn màu nâu thẫm. Trên bàn thờ trong cùng đặt 01 khám thờ bằng gỗ, kết cấu theo kiểu mái vát, diềm có kích th­ớc: Cao 2,9 m; rộng 0,69 m; dài 1,14 m. Mặt tr­ớc khám thờ chạm nổi bộ tứ linh hình l­ỡng - long- triều - nguyệt. Nét chạm điêu luyện, cách bố trí mềm mại. các mảng chạm và cả thân của khám thờ đều sơn son thếp vàng, do đó khám thờ trở thành đồ thờ đẹp, quý và linh.

               

                  Bàn thờ giữu (cấp 2) đ­ợc chạm trổ bộ tứ linh, có hình dáng giống nh­ h­ơng án gỗ. Trên bàn thờ đặt mâm chè, cọc nến, đài trãn, chén thờ, l­ h­ơng.....

               

                  Bàn thờ cấp 3 (ngoài) đ­ợc bày l­ h­ơng gỗ, mâm bồng, ống h­ơng sơn son, chén thờ......

               

                  + Bên phải gian trong nhà Hữu vu đặt 01 h­ơng án, có kích th­ớc: dài 1,09; rộng 0,68m; cao 1,41 m đ­ợc làm bằng gỗ chia thành các ô không đều nhau. Mặt ván đặt trong các ô đ­ợc chạm nổi các con vật trong bộ tứ linh, các loại hoa trong bộ tứ quý. Vì nét chạm điêu luyện, cách bố trí mềm mại, các mảng chạm và cả phần thân của h­ơng án đều đ­ợc sơn son thếp vàng nên h­ơng án cũng trở thành đồ thờ đẹp, quý và linh thiêng nh­ khám thờ. Trên h­ơng án bày l­ h­ơng, cọc nến, đài trãn, chén sứ, mâm chè, giá g­ơng....phục vụ cho nhu cầu trình bày, đặt lễ vật của nhà đền và du khách.

               

                  + Bên trái đặt 01 bàn thờ bằng gỗ có kích th­ớc (dài 1,33 m; rộng 0,81 m; cao 0,79 m) đ­ợc sơn màu nâu thẫm. Trên bàn thờ đặt 01 l­ h­ơng, mâm chè, chén sứ, giá g­ơng, đãi trãn, cọc nến....

                 

6. Nhà tả vu:       

                  Nhà tả vu đ­ợc xây dựng trên mặt bằng có diện tích gần bằng 20 m2 ( dài 6,4 m; rộng 3,4 m) gồm 3 gian 1 vì, 1 bức t­ờng ngăn đỡ đầu vì kèo tạo thành 3 gian.

                Mái nhà tả vu lợp bằng ngói d­ơng, hệ thống bờ nóc đ­ợc xây dựng bằng gạch chỉ với độ cao 0,335 m. Nền nhà láng bằng vôi vữa. 3 phía (Nam, Tây, Đông ) xây t­ờng bằng gạch mở cửa thông hơi. Mặt tr­ớc đ­ợc tạo bởi làm 2 lối cửa ra vào, ngăn cách nhau bằng các bức t­ờng nhỏ, đóng cửa bằng panô, ngoảnh mặt về phía bắc.

               

                 Khung tả vu đựoc làm bằng gỗ kiền kiền, da, mít, dổi.... đ­ợc thiết kế theo kiểu kèo xông, rẽ quạt. ăn thông các xà, hạ, hoành là một bức t­ờng xây bằng gạch chỉ, gia trát xi măng, trổ lối đi lại tạo thành t­ờng ngăn làm gian bếp nấu.

                 

                 * Bài trí nội thất:

               

                  Nhà tả vu dùng làm nơi đón khách, nấu n­ớng, chuẩn bị các lễ vật....phục vụ nhu cầu t­ởng niệm hàng ngày và tổ chức tế lễ hàng năm, nên việc bố trí rất đơn giản. Gian bếp đặt bếp lò và các dụng cụ (củi, nồi niêu, rổ rá...); gian ngoài đặt bàn ghế để làm nơi đặt mân soạn lễ và làm nơi cho khách ngồi chờ hành lễ.  

 

VI- Thống kê hiện vật trong di tích:

 

1. Loại hiện vật bằng đồng:

- Chiêng:                                                                              1 cái

- Chập cheng ( thanh la):                                      2 cái

 

2. Loại hiện vật bằng gỗ:

- Trống các loại (da):                                        3 cái

- Long ngai (sơn son thiếp vàng ):              1 cái

- G­ơm:                                                                      2 cái

- Khám thờ (sơn son thiếp vàng):                        2 cái

- Giá g­ơng:                                                                               2 cái

- Mâm bồng:                                                                           1 cái

- Mâm chè:                                                                              8 cái

- Mâm cổ bồng:                                                 1 cái

- Đài trãn:                                                  22 cái

- ống đựng h­ơng:                                                     5 cái

- Bàn thờ:                                                                            5 cái

- L­ h­ơng:                                                                                   3 cái

- H­ơng án (sơn son thiếp vàng):                          2 cái

 

3. Hiện vật bằng sứ

- Bát h­ơng:                                                                               7 cái

- Lọ hoa:                                                                                  2 lọ

- Chén thờ:                                                                  24  chiếc

 

4. Hiện vật khác:

- Bức đại tự phocmeka:                                        1 cái

- Cữa võng nỉ:                                         5 chiếc

- Cờ các loại:                                                    10 cái

- áo, mũ:                                                                     6 áo, 8 mũ

- Thần phả:                                                                               2

- Gia phả:                                                                                  1

 

VII- Giá trị lịch sử văn hóa:

                 

                 Đền thờ Đoàn Nhữ Hài là di tích có giá trị lớn về lịch sử văn hóa.

 

1. Giá trị lịch sử:  

                 Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc nhân dân và con cháu trong giòng họ Đoàn xây dựng lên để t­ởng nhớ và ng­ỡng vọng vị danh thần tài năng Đoàn Nhữ Hài - ng­ời có nhiều công lao to lớn trong việc xây dựng đất n­ớc, đánh giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.

                 

                 Thông qua một số tài liệu, hiện vật: Nghiên cứu thần phả, sắc phong, câu đối, bài vị, văn tế ở đền là nguồn sử liệu quan trọng, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bối cảnh lịch sử của xã hội Việt Nam ở thời Trần - Lê - Nguyễn, về sự đóng góp công lao to lớn của Đoàn Nhữ Hài, gắn với một giai đoạn lịch sử trong quá trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, hiểu biết thêm về chính sách của Nhà n­ớc phong kiến đối với những con ng­ời có công với dân với n­ớc.

               

                  Đến với di tích, chúng ta sẽ đ­ợc hiểu thêm về sự kiện lịch sử gắn với di tích trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc của nhân dân địa ph­ơng nói riêng và nhân dân Nghệ An nói chung. Vùng đất " Nguyệt Tiên " đ­ợc xây dựng đền thờ Đoàn Nhữ Hài là địa điểm ghi đậm các dấu ấn lịch sử của dân tộc. Ngay trên mảnh đất này, gần 700 về tr­ớc Đoàn Nhữ Hài và hiệu quân Thần Sách - Thần Vũ đã từng đóng quân khi ngài vào giữ chức kinh l­ợc đại sứ Nghệ An. Trong kháng chiến chống pháp, đền thờ là địa điểm hoạt động bí mật của chi bộ làng Nguyệt Tiên - Nơi che chở cho những chiến sỹ cộng sản để cùng nhân dân cả n­ớc đấu tranh dành độc lập dân tộc (phong trào XVNT ). Nơi chứng kiến nhiều trận đánh trả máy bay Mỹ của tự vệ công ty sửa chữa cơ khí 4 (1)

 (1) Theo lời kể của các cụ cao niên làng Nghuyệt Tiên. xã Diễn An - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An.

    

 2. Giá trị văn hóa:             

                  Xây dựng đền thờĐoàn Nhữ Hài là để tỏ lòng ng­ỡng vọng của nhân dân đối với ng­ời có công với dân viứi n­ớc. Nghiên cứu vị trí đền thờ, chúng ta thấy di tích thực sự có giá trị về mặt văn hóa khoa học. Di tích xây dựng ở mọtt địa thế cao, rộng rãi, thoáng mát. Đền thờ nằm gần đ­ờng giao thông chính ( nay là quốc lộ 1 A) nên rất thuận lợi cho du khách đi thăm viếng.

               

                  Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc xây dựng với quy mô vừa phải, kết cấu đơn giản nh­ng vững chắc, phù hợp với vùng đất lám m­a nhiều bão. Nghệ thuật kiến trúc của di tích chủ yếu tập trung vào một số chi tiết kiến trúc phần gỗ: vì kèo đầu d­, đầu bẩy và một số tài liệu hiện vật nh­ án th­ , khám thờ, long ngai với các dề tài chạm trổ công phu: hoa sen, cúc dây, tùng trúc, long ly quy ph­ợng. Các nét, sinh động làm tăng thêm vẻ đẹp, uy nghiêm của di tích. Giá trị nghệ thuật ở di tích còn thể hiện rõ nét ở các mảng chạm, đắp nổi vôi vữa nh­ng các mảng chạm đắp gọn sắc nét, có hồn và hết sức sinh động.

               

                  Đền thờ Đoàn Nhữ Hài  đ­ợc xây dựng trên mảnh đất " Nguyệt Tiên " nằm gần đền Cuông - Nơi thờ Thục An D­ơng V­ơng - ng­ời có công dựng n­ớc Âu Lạc. Hành năm, vào ngày 14- 15/2 Âm lịch nhân dân trong vùng tổ chức lễ hội đền Cuông với nhiều sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc nh­: Dâng h­ơng, tế thần, r­ớc kiệu, đấu vật, chọi gà, múa võ, kéo co chơi đu..v..v.. Vào dịp lễ hội nh­ thế, nhân dân làng Nguyệt Tiên và con cháu dòng họ Đoàn tham gia tổ chức hoạt động nh­: Dấng h­ơng, Tiến Lễ, vui chơi thể thao... nhằm khơi dậy trong tinh thần yêu n­ớc, lạc quan. Thông qua các hoạt động này, nhân dân, con cháu càng hết sức tự hào về quê h­ơng, dòng họ đã có đền cống hiến cho đất n­ớc nhiều anh hùng nghĩa sỹ có công với dân với n­ớc nh­ Đoàn Nhữ Hài.

                 Đền thờ Đoàn Nhữ Hài không chỉ làg nơi gặp gỡ các thế hệ con cháu trong dòng họ, hội tụ những ng­ời " có tâm, có đức" ở khắp mọi nơi trong một ý thức trở về cội nguồn, dân tộc; mà còn là những hành động mang tính nhân văn rất cao.

                 Việc tế lễ, lễ hội ở đền thờ Đoàn Nhữ Hài có nhiều sinh hoạt đa dạng, phong phú, không những đã khơi dậy và làm sống lại các hoạt động văn nghệ truyền thống, thể thao đầy lạc quan mà còn mang tính nhân văn khac nh­: vào ngày mất của ngài  (125-3 âl), ngày sóc, ngày vọng, tết thanh minh... nhân dân trong vùng và con cháu dòng họ từ bắc chí nam lại quây quần về đền làm lễ t­ởng niệm vong linh Đoàn Nhữ Hài. Đồng thời, cùng ôn lại cuuộc đời, sự nghiệp cống hiến của ông để nhân dân và con cháu ghi nhớ và noi theo.

 

VIII- Trạng thái bảo quản:

               

                 Nghiên cứu thần phả, sử cũ, sắc phong và các tài liệu liên quan cùng với kết quả điền giả thực tế cho thấy:

                 

                 Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc xây dựng từ thời hậu lê do Đoàn Viết Yến - tri huyện Quỳnh L­u, là con cháu dòng tộc chủ công xây dựng lên. lúc đầu quy mô đền thờ còn đơn sơ. D­ới triều đại nhà Nguyễn, đặc biệt là Đời tự Đức Nguyên niên, Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đ­ợc nhân dân và dòng họ trùng tu, xây dựng với quy mô đồ ssộ gồm các công trình sau: Cổng tam quan, sân v­ờn, hạ điện, trung điện, th­ợng điện, hữu - tả vu và 01 nhà soạn lễ... nơi nổi tiếng quý và linh thiêng.

                 

                 Trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, do gần trục đ­ợc giao thông chính ( quốc lộ 1A) nên khu vực đền chịu sự tàn phá lớn của bom mỹ. Các công trình h­ hỏng nhiều, đồ tế khí mất mát, h­ hỏng phần lớn.

                 Sau khi chiến tranh kết thúc, vùng đất có di tích đ­ợc quy hoạch thành vùng trồng cây của xã, di tích dần d­ợc phục hồi với các công trình, bái đ­ờng, tả vu...

                 

                 Hiện tại do điều kiện kinh phí, phần cổng tam quan và hàng rào bao quanh di tích ch­a đ­ợc phục hồi.

               

                  Việc bảo vệ và phát huy tác dụng di tích đ­ợc chính quyền địa ph­ơng và con cháu trong dòng họ hết sức quan tâm. Hiện nay có ban lễ nghi và bảo vệ gồm 12 ng­ời, và sự phân công chặt chẽ trong hoạt động. Các sinh hoạt văn hóa, lễ hội ở di tích đ­ợc tổ chức chu đáo và trang nghiêm.

               

                  Đền thờ Đoàn Nhữ Hàđã và đang thu hút đông đảo nhân dân và khách thập ph­ơng đến tham quan t­ởng niệm. Chính quyền địa ph­ơng và con cháu dòng họ Đoàn có kế hoạch trùng tu, tôn tạo di tích theo h­ớng phục hồi cổ, trả lại dáng vẻ ban đầu cho di tích.

Comments