Lịch
sử đấu tranh dựng nớc và giữ nớc 4000 năm
Đoàn Nhữ Hài sinh năm 1280 tại làng Hội
Xuyên huyện Trờng Tân, lộ Hồng Châu (nay là huyện gia lộc, tỉnh Hải Dơng).
Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Văn Võ song toàn.
Cha là Đoàn Phúc Trung từng làm tớng dới quyền chỉ huy của Tiết chế Hng
Đạo đại vơng Trần Quốc Tuấn, đã trực tiếp tham gia trận đánh quyết chiến
chiến lợc nh: Vân Đồn 1281, Bạch Đằng 1288....góp phần đánh bại quân xâm lợc
nhà Nguyên, đa lại dộc lập cho dân tộc.
Tuổi nhỏ, Đoàn Nhữ Hài đã chứng kiến cảnh nớc
nhà bị giặc ngoại xâm tàn phá, tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Đại
Việt đánh bại quân xâm lợc Nguyên Mông. Ông sớm bộc lộ t chất thông minh,
thiên t đĩnh ngộ. Đoàn Nhữ Hài rất ham mê học tập, tính tình lanh lợi hoạt
bát, thông làu kinh sử, sức học và tài năng của ông vợt xa các bạn cùng
trang lứa. Với mong muốn rèn luyện thành tài để góp nhiều công sức, tài năng
của mình cho đất nớc. Thấy con có chí lớn, lại chăm lo học tập Đoàn Phúc
Trung gửi con trai mình lên kinh đô Thăng Long học tập.
Sau 4 năm miệt mài kinh sử ở kinh thành
Thăng Long, tài năng của Đoàn Nhữ Hài càng bộc lộ rõ và sớm khẳng định . Vì
vậy, ông đợc vua Trần Anh Tông phong làm Ngự sử trung tán lúc ông vừa tròn
20 tuổi. Về sự kiện này sách Đại Việt sử ký toàn th và Đại việt sử ký tiền
biên chép nh sau:
" Tháng 5, Kỷ Hợi (Hng Long năm thứ 7
- 1299) lấy Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Bấy giờ, Thợng hoàng từ Thiên
trờng về Kinh s, mọi ngời trong ngoài đều không ai biết. Vua Trần Anh Tông
uống rợu xơng bồ say quá. Thợng hoàng dạo xem khắp cung điện từ giờ Thìn
đến giờ Tỵ. Ngời trong cung dâng cơm, nhìn khắp nơi không thấy vua, thợng
hoàng tức lắm bèn hỏi. Cung nhân vội vàng đánh vua vẫn không tỉnh. Thợng
hoàng cả giận lập tức xa giá trở lại Thiên trờng xuống chiếu cho trăm quan
hôm sau phải đến để điểm danh. Trời về chiều vua Anh Tông mới tỉnh. Cung nhân
mang việc đó tâu lên vua sợ lắm, đi bộ ra khỏi cung, ngời hầu cũng không kịp
theo, qua chùa T Phúc gặp học sinh là Đoàn Nhữ Hài, vua bèn hỏi, Nhữ Hài vội
vàng phủ phục xuống đất tha " Thần vì mãi học vào lầm đây thôi".
Vua Trần Anh Tông mang Đoàn Nhữ Hài vào phòng và bảo rằng: " Ta vừa rồi
bị say rợu mang tội với Thợng Hoàng. Nay ta muốn dâng biểu tạ tội, ngơi
hãy thảo giúp ta". Đoàn Nhữ Hài vâng chỉ thảo xong ngay, vua lập tức
dùng thuyền nhẹ ra đi cho Nhữ Hài theo. Ngay đêm ấy sang Thiên Trờng, sáng
sớm thì đến phủ, sai Đoàn Nhữ Hài vào dâng biểu. Thợng Hoàng hỏi" Đó là
ngời nào". Ngời hậu cận tha " Đó là ngời của nhà Vua dâng
biểu". Thợng hoàng không trả lời. Trời đã về chiều ma to, gió lớn kéo
đến, Nhữ Hài vẫn quỳ mà không di chuyển. Thợng Hoàng hỏi " Ngời ở
trong sân có còn đó nữa không?" rồi sai ngời nhận biểu để xem, thấy
từng từ, từng ý đều rất cầu khẩn bèn triệu Vua vào dụ rằng : " Trẫm còn
có con khác cũng có thể nối ngôi, trẫm còn sống mà đẫ nh thế, sau này sẽ ra
sao? " Vua cúi đầu lạy tạ. Thợng hoàng hợp ý Trẫm, bèn ban chiếu cho
quan gia trở về ngôi Vua, trăm quan lại đợc về triều nh cũ " (1)
(1) Đại Việt sử ký toàn th - tập 2 trang 75
NXB KHXH - Hà Nội 1967
Và Đại Việt sử ký tiền biên - trang 392-393
NXB KHXH - Hà Nội 1997
Thấy Đoàn Nhữ Hài là một ngời tài cao học
rộng, mu lợc hơn ngời. Năm 1303, Vua Trần Anh Tông cử Ông đi sứ Chiêm
Thành. Chuyến đi sứ của Đoàn Nhữ Hài đã khẳng định một cách vững chãi thế của
nớc Đại Việt, xóa bỏ đợc tục lễ cũ -
các sứ thần Việt Nam sang sứ Chiêm
Thành không phải lạy tạ Vua Chiêm.
" Trớc đây nớc ta sang Chiêm Thành
đều phải vái Quốc Vơng trớc, sau mới mở Chiếu th. Khi Đoàn Nhữ Hài đến,
nghĩ kế để dần dần thay đổi, bèn đến thẳng án kinh đặt chiếu th và nói với
vua Chiêm " Từ khi Sứ thần của triều đình, đem chiếu th của thiên tử
đến, phải xa cách Thiên tử lâu ngày, nay mở Chiếu th nh thấy Thiên tử, thần
lậy chiếu th rồi sau mới kính đọc". Dù đang ở trớc mặt vua Chiêm nhng
vẫn lấy tiếng là lậy chiếu th để tỏ tiết tháo bất khuất của sứ thần ".
Thời gian ở sứ Chiêm Thành chỉ một năm. Nhờ thông minh,
tận tình và có phơng pháp, kế sách hay nên Đoàn Nhữ Hài không những hoàn
thành suất sắc nhiệm vụ của triều đình giao cho mà còn phá hủy đợc tục lệ
cũ, tạo ra tục lệ mới, làm tiền lệ cho những ngời sau này sang sứ.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đi sứ ở Chiêm
Thành, về nớc Đoàn Nhữ Hài bái kiến
Thợng hoàng Trần Nhân Tông tâu trình toàn bộ kết quả chuyến đi sứ của mình,
Thợng hoàng khen ngợi Đoàn nhữ Hài " Nhữ Hài thực là ngời tài giỏi, đợc
quan gia sai khiến là phải". Ghi nhận thành quả, công trạng của Đoàn Nhữ
Hài, vua Trần Anh Tông cho Ông làm quan Tham tri chính sự.
Quý trọng tài năng của Đoàn Nhữ Hài, tháng
12 năm Giáp Thìn (1304) vua Trần Anh Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài chức Tri khu
mật viện sự. Đây là chức vụ cao trong triều đình, thờng chỉ bổ dụng ngời
tôn thất trong hoàng tộc nắm giữ, nhng thấy Đoàn Nhữ Hài thực sự tài giỏi
nên vua Trần mới bổ nhiệm ông giữ chức vụ này. Sách Đại Việt sử ký toàn th
chép : " Cho Đoàn Nhữ Hài làm Tri mật viện sự, Vua đối với ngời tôn
thất nh bảo hng Vong (không rõ tên) rất là thân yêu, mà không ủy cho làm
việc chính sự, vì là không có tài làm đợc. Còn Đoàn Nhữ Hài là một học trò
thôi, nhng vì có tài nên không ngại lại ủy dụng mau quá" (1)
(1)- Đại Việt sử ký toàn th - tập
2 trang 95 - NXB KHXH - Hà Nội 1967
Đợc vua Trần tin yêu, trọng dụng, mọi ngời
quý mến, Đoàn Nhữ Hài càng phấn khởi, cố gắng đem hết tài trí, năng lực phục
vụ cho đất nớc.
Tháng sáu năm Bính Ngọ thứ 14 (1306), Thợng
Hoàng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (vua nớc Chiêm Thành). Chế Mân
dâng đất 2 châu Ô, Rý làm lễ vật dẫn cới. Năm Đinh Mùi thứ 15 (1307), Nhà
Trần đổi 2 châu Ô, Rý thành Châu Thuận và Châu Hóa sát nhập vào nớc Đại
Việt. Ngời các Châu ấy không chịu theo, nổi lên chống lại mệnh triều đình.
Vua Trần Anh Tông sai Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên nhân dân 2 châu Thuận, Hoá đó.
Bằng kế sách mềm dẻo, lời lẽ thuyết phục thấu tình đạt lý - Đoàn Nhữ Hài tiến
hành cấp ruộng đất cho nhân dân, giảm tô thuế 3 năm, lấy ngời sở tại bổ làm
quan lại, Nhân dân 2 châu tin tởng vào Đoàn Nhữ Hài yên ổn làm ăn, ổn định
cuộc sống và quy phục lại triều đình.
Một lần nữa, tài năng của Đoàn Nhữ Hài đợc
khẳng định và đợc triều đình nhà Trần tin dùng. Tháng 12 năm Nhâm Tý (1312),
vua Chiêm Thành là Chế Chí phản trắc. Vua Trần thân chinh đi đánh Chiêm Thành
lấy Đoàn Nhữ Hài làm thiên tử chiêu dụ sứ. Nhận trọng trách nhà Vua giao,
Đoàn Nhữ Hài bí mật tiếp cận với trại chủ Câu Chiêm (một cận thần thân tín
của Chế Chí) - thuyết phục Câu Chiêm dụ Chế Chí ra hàng Quân Trần. Lý lẽ của
Đoàn Nhữ Hài đã thuyết phục đợc Câu Chiêm, Câu Chiêm đã bàn bạc với Chế Chí,
Chế Chí nghe theo đem gia thuộc theo đờng biển ra hàng. Với tài năng ngoại
giao, mu trí dũng lợc, Đoàn Nhữ Hài đã dẹp quân Chiêm - giữ yên bờ cõi nớc
nhà mà không cần phải dùng đến một mũi tên nào. Đó là công lao lớn của Đoàn
Nhữ Hài (1)
(1) Đại Việt sử ký tiền biên -
trang 413 - NXB KHXH Hà Nội 1867
Thấy Nghệ An là một vùng đất có vị trí chiến
lợc quan trọng, giáp biên giới Chiêm Thành, thờng bị quân Chiêm dòm ngó,
quấy nhiễu. Vua Trần giao cho Đoàn Nhữ Hài quản lĩnh 2 triệu quân Thần Sách,
Thần Vũ kiêm Kinh lợc sứ Nghệ An. Lĩnh mệnh nhà Trần, Đoàn Nhữ Hài dẫn quân đóng tại mảnh đất "
Nguyệt Tiên". Trong thời gian thực hiện nhiệm vụ - Kinh lợc đại sứ Nghệ An, Đoàn Nhữ Hài thấy mảnh đất mà mình
đang đóng quân là một vùng đất có vị trí đẹp, thuận lợi cho việc xây dựng vị
trí chiến lợc ....nên ông đa gia nô, con cháu vào định c, khai khẩn lập
làng trên mảnh đất " Nguyệt Tiên " này.
Năm ất Hợi 1335, quân Ai Lao vào xâm lợc
đất Nam Nhung thuộc điạ phận Nghệ An. Thợng Hoàng thân chinh đem quân đi
đánh, lấy Đoàn Nhữ Hài làm Đốc tớng, các quân thứ đều phải chịu mệnh lệnh
của Đoàn Nhữ Hài.
Vùng đất Nam Nhung (xã Bồng Khê, huyện Con
Cuông ngày nay) hiểm trở, sông ngòi nhiều. Đoàn Nhữ Hài do chủ quan về số lợng
của quân Ai Lao đóng giữ ở ấp Nam Nhung ít và yếu , nên ông chỉ sử dụng quân
Thần Vũ và quân Nghệ An ra trận. Trận đánh xảy ra khá gay gắt quyết liệt, mây
mù che tối, quân giặc bố trí quân lính nhiều đã phục sẵn hai bên bờ sông: lực
lợng lớn, ngời đánh ập các hớng lại. Sau trận giao tranh quyết liệt, quân
của Đoàn Nhữ Hài thua trận, rơi xuống nớc quá nửa. Đoàn Nhữ Hài tử Trận (1)
(1) Đại Việt sử ký tiền biên -
trang 433, 434- NXB KHXH Hà Nội 1967
Nghe tin Đoàn Nhữ Hài mất, tiếc thơng - Vị
anh hùng trung nghĩa, tài ba đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự trung hng
đất nớc. Triều Đình nhà Trần tiếp tục củng cố lại lực lợng để tiến công,
đánh bại quận giặc, thu phục đất đai, chiêu dụ đợc nhân dân Làng Củng -
huyện Tơng Dơng (xã Bồng Khê - huyện con Cuông ngày nay) làm lễ tế linh hồn
Đoàn Nhữ Hài và lập Đền thờ Ông tại làng ven sông để quanh năm hơng khói.
Đoàn Nhữ Hài là một ngời thông minh, chính
trực, tài giỏi, văn võ kiêm toàn. Trải qua 36 năm làm quan phụng sự 3 triều
vua nhà Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông), Ông đã góp sức mình vào quá
trình đấu tranh và bảo vệ bờ cõi nớc nhà, đồng thời ông đã nêu lên một tấm gơng
sáng về lòng trung quân ái quốc.
Ngoài đền thờ chính ở làng Nguyệt Tiên, xã
Diễn An, huyện Diễn Châu, còn có đền thờ Đoàn Nhữ Hài ở một số làng thuộc
huyện Gia Lộc - Hải Dơng: Hội Xuyên, Tăng Thợng, Phó Trào.... Trải qua bao
thăng trầm lịch sử, những đền thờ này còn rất ít ỏi. Đền thờ Đoàn Nhữ Hài ở
làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An - huyện Diễn Châu là một trong số ít đền còn lại
đợc nhân dân và con cháu dòng họ Đoàn lập để tởng nhớ đức vị danh tài của
đất nớc.
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài là nơi
thăm viếng, tế lễ hàng năm của con cháu, nhân dân địa phơng nói riêng và du
khách thập phơng nói chung. Nó đáp ứng đợc nhu cầu văn hóa tâm linh mang
đậm nét đẹp của văn hóa truyền thống đạo lý " Uống nớc nhớ nguồn"
của nhân dân Việt nam .
Từ khi có ngôi Đền này, vùng đất này đã ghi
dấu nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc nh: trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, Đền thờ là địa diểm hội họp của nhân dân xã Diễn An - nơi che chở cho
những chiến sĩ cộng sản hoạt động bí
mật trong thời kỳ cách mạng 1930- 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh để cùng nhân dân
cả nớc đấu tranh dành độc lập dân tộc. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nớc,
Đền thờ còn là nơi tập trung huấn luyện dân quân và là nơi chứng kiến nhiều
trận đánh trả máy bay Mỹ của Tự vệ công ty sữa chữa cơ khí 4.
IV- Loại hình di tích:
Đền thờ Đoàn nhữ Hài là công trình tởng niệm đợc nhân dân xây dựng lên để
nhớ ơn một vị anh hùng tài năng - Ngời có công đánh giặc ngoại xâm, giữ yên
bờ cõi nớc nhà.
Đền thờ đợc xây dựng ở vị trí đẹp, thoáng,
ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử, nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh tế, sắc sảo với
nhiều đề tài sinh động, có sức cuốn hút khách tham quan.
Vì vậy, di tích đền thờ Đoàn Nhữ Hài là loại hình di tích: Lịch sử văn hóa.
V- Khảo tả di tích:
Đền
thờ Đoàn Nhữ Hài đợc xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 2300 m2, thuộc
cánh đồng Sò làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An- huyện Diễn Châu - Tỉnh Nghệ An;
ngoảnh mặt về phía chính Tây.
Xung quanh Đền là vờn phi lao quanh năm
xanh tốt, tạo bóng mát cho di tích. Cách 200 về phía đông là con đờng Quốc
lộ 1A, ngày đêm nhộn nhịp ngời và xe cộ qua lại. Cách đền khoảng 3000m (3
km) về phía Nam là đền Cuông, nơi thờ Thục An Dơng Vơng - Vị anh hùng dân
tộc đã công lập nên nớc Âu Lạc, đợc xây dựng dới chân núi Mộ Dạ. Phía trớc
đền là những cánh đồng màu mỡ, xóm làng Trù Phú, xa hơn là dãy núi Mụa Chân
Tiên trải dài nhấp nhô và làng mạc yên vui của làng Nguyệt Tiên nh một bức
bình phong chắn gió - Bảo vệ sự bình yên cho ngôi đền.
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đợc xây dựng ở vị trí
địa lý cảnh quan đẹp, gần trục đờng giao thông chính, thuận lợi cho du khách
tham quan và thăm viếng di tích.
Di tích đền thờ Đoàn Nhữ Hài gồm có các công
trình chính sau: Sân - Vờn đền, Bái đờng, Hậu cung, Tả vu và Hữu vu.
1. Vuờn và sân đền:
Vờn đền thờ Đoàn Nhữ Hài rộng, bằng phẳng,
đợc trồng các loại cây xanh nh: đa, phợng, bàng, tre, phi lao, mít...làm
cho khung cảnh vờn hài hòa với cảnh quan của làng Nguyệt Tiên, đồng thời tạo
bóng mát và điều hòa môi sinh cho toàn khu vực di tích.
Sân đền có diện tích 112m2 (dài 22,4m; rộng
5m ), đợc láng bằng vữa tam hợp. Trớc sân đền xây hai ngôi mộ (mộ bà Tổ cô
họ Đoàn và mộ Đoàn Nhữ Hài); giữa sân trồng bụi trầu quấn thân cây cau. Theo
quan niệm dân làng, trầu cau không chỉ đợc làm vật phẩm trong những ngày sóc
vọng, ngày rằm ... tại đền, mà còn biểu tợng cho sự chung thủy, sắt son của
ngời Việt trong cuộc sống.
2. Mộ Đoàn Nhữ Hài và mộ bà Tổ cô:
a). Mộ Đoàn Nhữ Hài:
Theo sử cũ cho biết, Đoàn Nhữ Hài hy sinh
trong trận chiến với quân Ai Lao ở ấp Nam Nhung (1335). Sau khi Đoàn Nhữ Hài
mất, vua Trần làm lễ tế linh hồn ông bên bờ sông Lam và cho nhân dân lập đền
thờ ở làng Củng, huyện Tơng Dơng (nay là xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, tỉnh
Nghệ An) để muôn đời tởng nhớ, biết ơn ngời anh hùng đã hy sinh cho sự
nghiệp đấu tranh, bảo vệ tổ quốc.
Về sau, năm thứ 2 đời Lê Cảnh Hng, tri
huyện Quỳnh Lu là Đoàn Viết Yến, là hậu duệ của Đoàn Nhữ Hài đã chuyển bài
vị, lập đền thờ và đắp mộ chiêu hồn Đoàn Nhữ Hài ngay trên mảnh đất mà Ngài
và hai hiệu quân thần Sách - Thần vũ đóng quân để kinh lợc đại sứ Nghệ An.
Nơi đó gọi là làng Nguyệt Tiên, xã Diễn An - huyện Diễn Châu- tỉnh Nghệ An.
Mộ Đoàn Nhữ Hài đắp trớc sân, đối diện với
nhà bái đờng ở phía Đông. Mộ đợc đắp bằng đất và sò bổi, xung quanh ghép sò
khối thành hình chữ nhật có kích thớc: dài 2,3 m; rộng 2,1 m; cao 0,25 m. phía chân mộ xây bức chắn cao
1m rộng 2,0m uốn hình cung, bằng gạch, vôi vữa. phía trớc đặt 1 l hơng
bằng sứ để con cháu và nhân dân thắp hơng, tởng niệm Ngài khi đến viếng
thăm di tích.
b). Mộ bà Tổ cô:
Theo lời kể của các cụ tiền lão trong làng
Nguyệt Tiên, thì bà Tổ cô có tên là Đoàn Thị Thủy. Bà sinh ra và lớn lên trên
mảnh đất Nguyệt Tiên này. ở tuổi trởng thành, Bà Thủy không lấy chồng, không
lập gia đình riêng, Bà đã cống hiến cuộc đời mình cho việc Hộ sinh - Giúp đỡ,
chăm sóc các phụ sản ở thôn xã mình. Sau khi Đoàn Thị thủy mất, đợc nhân dân
và con cháu chôn cất đắp mộ cho Bà trong khuôn viên đền thờ Đoàn Nhữ Hài làng
Nguyệt Tiên, xã Diễn An- huyện Diễn Châu- tỉnh Nghệ An.
Mộ Đợc đắp trớc nhà Hữu vu. Về kiến trúc,
chất liệu gần giống nh mộ Đoàn Nhữ Hài. Mộ có kíh thớc: dài 2,4 m; rộng 1,6
m; cao 0,5 m. ở chân mộ xây tờng chắn cao 1,1 m, phía truớc đặt lu huơng
để con cháu, nhân dân thắp huơng tuởng niệm.
3. Nhà bái đuờng:
Nhà bái đuờng đợc xây dựng trên mặt bằng
có diện tích gần bằng 53 m2, gồm 3 gian 2 vì. Phía trớc và sau để trống, hai
đầu xây tờng bít đốc. Nền nhà bái đờng đợc đắp cao hơn sân 0,42m, láng
bằng vữa tam hợp; thềm đợc xây dựng bằng gạch chỉ, gia trát xi măng tạo
thành tam cấp. Mái nhà lợp bằng ngói âm dơng. Hệ thống bờ nóc đợc đắp nổi
hình mặt hổ phù.
Phía trớc thềm nhà, hai đầu hồi xây 2 cột
quyết bằng gạch chỉ, gia trát vữa tam hợp. Mỗi cột tính từ lồng đèn xuống mặt
đất là 3,3m. Thân trụ là một hình khối có kích thớc 2,4m x 0,4 m x 0,4m. Mặt
trớc và trong của thân cột, xung quanh đắp gờ nổi sắc nét, mặt giữa thân cột
hơi lõm xuống để trang trí hệ thống câu đối.
Hai bên cột: Mặt truớc ghi câu đối bằng chữ
Hán màu đen:
"
Mộc phát thiên chi do nhất bản
Thủy
luu vạn phái tổng đồng nguyên"
Nghĩa là:
"
Cây nứt nghìn nhánh bởi một gốc
Nuớc
chảy muôn giòng tóm một nguồn"
Mặt
trong thân cột:
"
Đoàn tộc Tuớng truyền luu Quốc sử
Tôn
tử văn võ kế Gia phong"
Nghĩa là:
"
Họ Đoàn luôn có Tuớng đuợc ghi sử sách
Con
cháu luôn trau dồi văn võ nối nghiệp"
Đỉnh cột quyết đợc xây hình lồng đèn cách điệu, bốn
mặt có kính.
Về kết cấu, khung nhà bái đờng đợc làm
bằng gỗ lim, hệ thống cột, 4 cột quânvà 2 cột hiên (2,4 m x 0,22 m x 0,22 m ) đỡ 2 cổ nghé sau, tạo
sự vững chắc cho ngôi đền. Nối các kèo, xà hạ bằng các mộng, sàm vừa chắc,
vừa khít.
Về kiểu dáng, nhà bái đờng đợc làm theo
kiểu tiền trụ, vì kèo thiết kế theo kiểu kẻ chuyền, giá chiêng. Hệ thống phủ
đầu, hoành đợc trải đều hai mái (trớc 11 đờng, sau 8 đờng ). Vì các thân
xà, hạ đợc vát theo kiểu sống khế, 2 phần chính nối phần chuyền chạm đầu
rồng và dây hoa cách điệu. Một số xà, hạ khác đợc chạm nổi các vân mây, dây
hoa. Nét chạm sắc, mềm mại, uyển chuyển trông thật sống động, tạo cho bộ
khung nhà trông nhẹ nhàng, thanh thoát. Nhà bái đờng của đền thờ Đoàn Nhữ
Hài đợc coi là một trong số ít công trình kiến trúc bằng gỗ quý, cỗ có cham
trổ đẹp còn đợc lu giữ trên mảnh đất " Nguyệt Tiên" này.
.
Bài trí nội thất:
Nhà
bái đường để trống
4. Nhà hậu cung:
Bái đờng và Hậu cung đợc ngăn cách bởi sân
lộ thiên, có chiều dài bằng nhà bái đờng (7,4m); rộng 2,95m, sâu 0,22m, đợc
láng bằng vữa tam hợp tạo sự thông thoáng và chống xói mòn.
Nối nhà bái đờng và hậu cung, hai bên bức
tờng giắc xây bằng gạch - vôi vữa, có kích thớc: 3,2 m x 0,3 m x 0,3 m. Mặt
trớc thân cột đợc nhấn câu đối:
"
Tiền thái tổ môn kinh phát tích
Hậu tổ tiên phủ diễn khai cơ"
Nghĩa là:
" Trớc gốc tổ kinh môn nơi phát tích
Về sau đến Diễn châu lập làng khai
cơ"
Đỉnh cột đợc gắn tợng nghê nằm trên hoa
sen cách điệu, trong t thế chầu vào đền trông thật sống động.
Nhà Hậu cung đợc xây dựng trên mặt bằng có
diên tích gần bằng 28 m2 (dài 6,0m ; rộng 4,65 m ) gồm 3 gian 2 hồi. Ba phía
xây tờng. Phía trớc đóng cửa ra vào ở 3 gian. Cửa đợc đóng theo kiểu ván
dật, ngạch cửa đợc xây bằng gạch, vôi vữa với độ cao 0,1 m. phía trên ngỡng
cửa gian giữa đợc đắp nổi bức cuốn th nhấn 3 chữ Hán màu đen viết lệch
nhau, chữ giữa cao hơn, hai chữ bên bằng nhau: " Đoàn thần từ",
nghĩa là "Đền thờ họ Đoàn ". Hai bên, phải - trái vẽ hai con phợng
cách điệu trong t thế đang bay, đỡ bức cuốn th. Nét vẽ uyển chuyển, mềm sắc
tạo hình tợng con chim phợng rất sống động. ẩn sau bức cuốn th là 2 cành
đào đang nở hoa trông thật tinh khiết.
Phía trong bức tờng ở hai hiên nhà đợc đắp
nổi hình tợng hai con chim hạc đứng trên lng rùa, miệng hạc ngậm bông hoa
sen. Hạc ở t thế đứng thẳng, đầu vơn cao. Rùa ở t thế đang bò, đầu vơn
dài ra phía trớc.
Mặt ngoài cột trụ nối gian giữa với hai
gian bên đợc kẻ khuôn màu đỏ, phía trong tô vàng kín, viết hai câu đối màu
đen có nội dung:
"
Lịch đại trần triều phong tớng
Kim triều Việt sử tặng võ quan"
Nghĩa là:
"
Đời vua nhà Trần đợc phong tớng
Nay sử sách còn ghi lại quan võ"
Nền nhà Hậu cung đợc đắp cao hơn sân lộ
thiên 0,23 m, láng bằng vữa tam hợp. Mái nhà lợp bằng ngói âm dơng. Hệ thống
bờ nóc đợc đắp nổi hình Lỡng - long - triều - Nguyệt. Con rồng ở mái nhà có
phần chân khỏe, bám chắc vào nóc mái, thân rồng uốn làm 3 khúc quấn trong các
giải mây. Đầu rồng dữ tợn, ngẩng cao chầu vào mặt nguyệt tròn đợc viền các
tia hào quang lấp lóa. Khung nhà Hậu cung làm bằng gỗ lim, hệ thống cột (4
cột và 2 cột áp vào tờng ) đợc làm theo kiểu tứ trụ, vì kèo thiết kế theo
kiểu chuyền chụp. Vì các thân xà, hạ đợc vát theo kiểu sống khế, 2 đầu d xà
phía sau chạm đầu rồng ngoảnh mặt vào nhau, nghệ thuật chạm khắc điêu luyện,
đờng nét sắc sảo tạo cho con vật nhẹ nhàng, sống động, làm tăng sự cổ kính
cho ngôi nhà.
. Bài trí nội thất:
Nhà Hậu cung là nơi thờ chính vị danh thần
tài hoa Đoàn Nhữ Hài. Bài trí trong
nhà Hậu cung nh sau:
- Gian bên phải: đợc bài trí 01 hơng án
xây bằng vữa tam hợp, dài 1,33 m; rộng = cao = 0,85m . Hình dáng giống nh hơng
án gỗ. Hơng án đợc sơn màu nâu thẫm, mặt trớc đợc đắp gờ nổi, tạo chỉ màu
đỏ. Trên hơng án, phía trên xà treo bức cữa võng bằng nỉ màu đỏ, đợc điểm hình
lỡng, long, nguyệt dệt nổi. phía trên thêu 3 chữ Hán " Đức Lu
Quang". Nét thêu đẹp, hoa văn nổi trông thật sinh động và uy nghiêm.
- Gian giữa: Đặt một bàn thờ 2 cấp xây bằng
vữa tam hợp, đợc sơn màu để làm nổi các đồ thờ:
Bàn thờ ở phía trớc cao 0,48 m; rộng 0,85
m, sơn màu trắng, trên bàn thờ bày l hơng, đôi cọc sáp, đôi ống hơng, mâm
chè, 3 đài trãn đều bằng gỗ sơn son; 2 lọ hoa bằng sứ....làm phơng tiện cho
du khách bày các vật phẩm tiến cúng.
Bàn thờ phía sau cao hơn (cao 1,3 m; rộng
0,67 m) đợc sơn màu vàng thẫm, ở phía trớc bày 01 mâm ngũ quả, 03 đĩa trãn
gỗ sơn son thếp vàng. Nửa phần còn lại phía sau, đặt 01 long ngai bằng gỗ,
sơn son thếp vàng rực rỡ, chạm khắc tinh xảo và 01 đôi kiếm gỗ sơn son.
Nhìn tổng thể, long ngai đợc cấu tạo gồm
02 phần chính. Long ngai có kiểu dáng giống nh chiếc ghế ngồi, long ngai đợc
trang trí sơn son thếp vàng tuyệt đẹp ....phần chân, tạc theo kiểu chân quỳ
có tỉa hoa văn. Phần thân trang trí vân mây, dây hoa, sóng nớc chảy dọc ôm
lấy bài vị thờ Đoàn Nhữ Hài bằng chữ Hán " Thợng thái thỉ tổ lịch triều
gia tặng sắc phong Ngự sử trung tán, chính sự khu mật viện đắc mệnh đại sứ
Chiêm thành lập công đệ nhất hạng Trần triều đại sắc phong Thần vũ, Thần sách
kiêm kinh lợc sứ Nghệ An đốc tớng chỉ huy toàn quân. Sắc phong đại đô đốc
Đoàn quý công húy Nhữ Hài, Hiệu Đoan túc anh dũng tớng quân thần vị"
Bệ ngai đợc tạc theo kiểu chân quỳ. Các
mặt chính của phần bệ đợc chia ô chạm lộng hình lỡng - long - triều -
nguyệt, chim phợng và dây hoa. Thân ngai bao gồm tay ngai và các con đỡ. Tay
ngai đợc mô phỏng bàn tay của thần đang đặt trên tay của một chiếc ghế trong
t thế ngồi oai vệ. Hai cánh tay uốn cong hình cung, bàn tay đợc cách điệu
bằng 02 đầu rồng vơn cao. Để tránh sự đơn điệu bằng 02 đầu rồng vơn cao. Để
tránh sự đơn điệu trong cách tạo dáng, các con tiện tròn nâng đỡ tay ngai đều
đợc chạm nổi hoa văn....
Phía trên xà hạ treo bức cữa võng giống nh
bức cữa võng gian bên phải.
Dới xà hạ, phía tờng treo tờ bài biểu của
Đoàn Nhữ Hài viết giúp vua Trần Anh
Tông đợc con cháu sao lại sau khi lập đền, tờ bài biểu bằng nỉ màu đỏ cũ,
nội dung đợc viết bằng chữ hán màu đen.
- Gian trái: Bài trí giống gian phải.
5. Nhà Hữu Vu:
Nhà Hữu vu của đền thờ Đoàn Nhữ Hài đặt
dọc, nằm cách nhà bái đờng khoảng 2 m về phía bắc.
Nhà Hữu vu đợc xây trên mặt bằng có diện
tích gần bằng 53 m2; dài 8,4 m; rộng 5,5 m ) gồm 3 gian 4 vì, ngoảnh mặt về
phía tây. Mái nhà đợc kết cấu theo kiểu mái chùa, lợp bằng ngói âm dơng. Bờ
nóc đợc xây bằng gạch chỉ, gia trát vôi vữa với độ cao 0,385 m; hai bờ dãi
mái trớc đựợc đắp nổi đầu rồng vơn cao. Nền nhà láng bằng xi măng. Bờ tờng
3 phía ( Nam Bắc, Đông) xây thẳng để tránh nớc ma tạt vào đền, bờ tờng
phía Nam mở cửa nách.
Mặt trớc nhà Hữu vu mở 03 lối cửa ra vào,
ngăn cách nhau bởi bức tờng và cột gỗ lim, ngạch cữa xây bằng gạch chỉ, gia
vôi vữa tạo thành
thng cửa ván dật.
Khung nhà hữu vu làm bằng gỗ lim, hệ thống
cột (2 cột cái, 8 cột quân), các bộ phận của khung nhà đựợc bào trơn, đóng
bén, sàm mộng kín chắc.
Nhà Hữu vu đợc làm theo kiểu tứ trụ, vì kèo
thiết kế theo kiểu ván mê, chạm nổi hình long, ly, quy, phợng....trên khuông
vì nhấn chữ Hán màu đen đã bị mờ.
. Bài trí nội thất:
Nhà hữu vu đặt dọc, lòng nhà không rộng nên
bàn thờ và đồ tế khí đợc bài trí ở gian trong. Gian ngoài để trống tạo lối
đi lại cho ngời bảo vệ đền và du khách vào - ra thắp hơng, tởng niệm.
- Gian giữa: Đặt 01 hơng án bằng gỗ sơn son
thếp vàng đã cũ. Trên hơng án đợc bày 01 l hơng gỗ, chén thờ....làm nơi
hành lễ cho du khách vào gian trong thắp hơng, phúng viếng.
- Gian trong: Là nơi thờ thần tổ, cụ tổ, bà
tổ... nên đợc bài trí nh sau:
+ ở giữa đợc đặt 01 bàn thờ 03 cấp bằng gỗ,
dài 1,22 m; rộng 0,74 m. Tầng trong cao 0,85m; tầng giữa cao 0,77 m; tầng
ngoài cao 0,74 m đợc sơn màu nâu thẫm. Trên bàn thờ trong cùng đặt 01 khám
thờ bằng gỗ, kết cấu theo kiểu mái vát, diềm có kích thớc: Cao 2,9 m; rộng
0,69 m; dài 1,14 m. Mặt trớc khám thờ chạm nổi bộ tứ linh hình lỡng - long-
triều - nguyệt. Nét chạm điêu luyện, cách bố trí mềm mại. các mảng chạm và cả
thân của khám thờ đều sơn son thếp vàng, do đó khám thờ trở thành đồ thờ đẹp,
quý và linh.
Bàn thờ giữu (cấp 2) đợc chạm trổ bộ tứ
linh, có hình dáng giống nh hơng án gỗ. Trên bàn thờ đặt mâm chè, cọc nến,
đài trãn, chén thờ, l hơng.....
Bàn thờ cấp 3 (ngoài) đợc bày l hơng gỗ,
mâm bồng, ống hơng sơn son, chén thờ......
+ Bên phải gian trong nhà Hữu vu đặt 01 hơng
án, có kích thớc: dài 1,09; rộng 0,68m; cao 1,41 m đợc làm bằng gỗ chia
thành các ô không đều nhau. Mặt ván đặt trong các ô đợc chạm nổi các con vật
trong bộ tứ linh, các loại hoa trong bộ tứ quý. Vì nét chạm điêu luyện, cách
bố trí mềm mại, các mảng chạm và cả phần thân của hơng án đều đợc sơn son
thếp vàng nên hơng án cũng trở thành đồ thờ đẹp, quý và linh thiêng nh khám
thờ. Trên hơng án bày l hơng, cọc nến, đài trãn, chén sứ, mâm chè, giá gơng....phục
vụ cho nhu cầu trình bày, đặt lễ vật của nhà đền và du khách.
+ Bên trái đặt 01 bàn thờ bằng gỗ có kích
thớc (dài 1,33 m; rộng 0,81 m; cao 0,79 m) đợc sơn màu nâu thẫm. Trên bàn
thờ đặt 01 l hơng, mâm chè, chén sứ, giá gơng, đãi trãn, cọc nến....
6. Nhà tả vu:
Nhà tả vu đợc xây dựng trên mặt bằng có
diện tích gần bằng 20 m2 ( dài 6,4 m; rộng 3,4 m) gồm 3 gian 1 vì, 1 bức tờng
ngăn đỡ đầu vì kèo tạo thành 3 gian.
Mái
nhà tả vu lợp bằng ngói dơng, hệ thống bờ nóc đợc xây dựng bằng gạch chỉ
với độ cao 0,335 m. Nền nhà láng bằng vôi vữa. 3 phía (Nam, Tây, Đông ) xây tờng
bằng gạch mở cửa thông hơi. Mặt trớc đợc tạo bởi làm 2 lối cửa ra vào, ngăn
cách nhau bằng các bức tờng nhỏ, đóng cửa bằng panô, ngoảnh mặt về phía bắc.
Khung tả vu đựoc làm bằng gỗ kiền kiền, da,
mít, dổi.... đợc thiết kế theo kiểu kèo xông, rẽ quạt. ăn thông các xà, hạ,
hoành là một bức tờng xây bằng gạch chỉ, gia trát xi măng, trổ lối đi lại
tạo thành tờng ngăn làm gian bếp nấu.
* Bài trí nội thất:
Nhà tả vu dùng làm nơi đón khách, nấu nớng,
chuẩn bị các lễ vật....phục vụ nhu cầu tởng niệm hàng ngày và tổ chức tế lễ
hàng năm, nên việc bố trí rất đơn giản. Gian bếp đặt bếp lò và các dụng cụ
(củi, nồi niêu, rổ rá...); gian ngoài đặt bàn ghế để làm nơi đặt mân soạn lễ
và làm nơi cho khách ngồi chờ hành lễ.
VI- Thống kê hiện vật trong di tích:
1. Loại hiện vật bằng đồng:
- Chiêng: 1 cái
- Chập cheng ( thanh la): 2 cái
2. Loại hiện vật bằng gỗ:
- Trống các loại (da): 3 cái
- Long ngai (sơn son thiếp vàng ): 1 cái
- Gơm: 2 cái
- Khám thờ (sơn son thiếp vàng): 2 cái
- Giá gơng: 2 cái
- Mâm bồng: 1 cái
- Mâm chè: 8 cái
- Mâm cổ bồng: 1 cái
- Đài trãn:
22 cái
- ống đựng hơng: 5 cái
- Bàn thờ: 5 cái
- L hơng: 3 cái
- Hơng án (sơn son thiếp vàng): 2 cái
3. Hiện vật bằng sứ
- Bát hơng: 7 cái
- Lọ hoa: 2 lọ
- Chén thờ: 24 chiếc
4. Hiện vật khác:
- Bức đại tự phocmeka: 1 cái
- Cữa võng nỉ: 5 chiếc
- Cờ các loại: 10 cái
- áo, mũ: 6 áo, 8 mũ
- Thần phả: 2
- Gia phả: 1
VII- Giá trị lịch sử văn hóa:
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài là di tích có giá trị
lớn về lịch sử văn hóa.
1. Giá trị lịch sử:
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đợc nhân dân và con
cháu trong giòng họ Đoàn xây dựng lên để tởng nhớ và ngỡng vọng vị danh
thần tài năng Đoàn Nhữ Hài - ngời có nhiều công lao to lớn trong việc xây
dựng đất nớc, đánh giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi phía nam của tổ quốc.
Thông qua một số tài liệu, hiện vật: Nghiên
cứu thần phả, sắc phong, câu đối, bài vị, văn tế ở đền là nguồn sử liệu quan
trọng, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bối cảnh lịch sử của xã hội Việt Nam ở
thời Trần - Lê - Nguyễn, về sự đóng góp công lao to lớn của Đoàn Nhữ Hài, gắn
với một giai đoạn lịch sử trong quá trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ
quốc của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, hiểu biết thêm về chính sách của Nhà nớc
phong kiến đối với những con ngời có công với dân với nớc.
Đến với di tích, chúng ta sẽ đợc hiểu thêm
về sự kiện lịch sử gắn với di tích trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc
của nhân dân địa phơng nói riêng và nhân dân Nghệ An nói chung. Vùng đất
" Nguyệt Tiên " đợc xây dựng đền thờ Đoàn Nhữ Hài là địa điểm ghi
đậm các dấu ấn lịch sử của dân tộc. Ngay trên mảnh đất này, gần 700 về trớc
Đoàn Nhữ Hài và hiệu quân Thần Sách - Thần Vũ đã từng đóng quân khi ngài vào
giữ chức kinh lợc đại sứ Nghệ An. Trong kháng chiến chống pháp, đền thờ là
địa điểm hoạt động bí mật của chi bộ làng Nguyệt Tiên - Nơi che chở cho những
chiến sỹ cộng sản để cùng nhân dân cả nớc đấu tranh dành độc lập dân tộc
(phong trào XVNT ). Nơi chứng kiến nhiều trận đánh trả máy bay Mỹ của tự vệ
công ty sửa chữa cơ khí 4 (1)
(1) Theo lời kể của các cụ cao niên làng
Nghuyệt Tiên. xã Diễn An - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An.
2. Giá trị văn hóa:
Xây dựng đền thờĐoàn Nhữ Hài là để tỏ lòng
ngỡng vọng của nhân dân đối với ngời có công với dân viứi nớc. Nghiên cứu
vị trí đền thờ, chúng ta thấy di tích thực sự có giá trị về mặt văn hóa khoa
học. Di tích xây dựng ở mọtt địa thế cao, rộng rãi, thoáng mát. Đền thờ nằm
gần đờng giao thông chính ( nay là quốc lộ 1 A) nên rất thuận lợi cho du
khách đi thăm viếng.
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đợc xây dựng với quy
mô vừa phải, kết cấu đơn giản nhng vững chắc, phù hợp với vùng đất lám ma
nhiều bão. Nghệ thuật kiến trúc của di tích chủ yếu tập trung vào một số chi
tiết kiến trúc phần gỗ: vì kèo đầu d, đầu bẩy và một số tài liệu hiện vật nh
án th , khám thờ, long ngai với các dề tài chạm trổ công phu: hoa sen, cúc
dây, tùng trúc, long ly quy phợng. Các nét, sinh động làm tăng thêm vẻ đẹp,
uy nghiêm của di tích. Giá trị nghệ thuật ở di tích còn thể hiện rõ nét ở các
mảng chạm, đắp nổi vôi vữa nhng các mảng chạm đắp gọn sắc nét, có hồn và hết
sức sinh động.
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đợc xây dựng trên mảnh đất " Nguyệt
Tiên " nằm gần đền Cuông - Nơi thờ Thục An Dơng Vơng - ngời có công
dựng nớc Âu Lạc. Hành năm, vào ngày 14- 15/2 Âm lịch nhân dân trong vùng tổ
chức lễ hội đền Cuông với nhiều sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc nh:
Dâng hơng, tế thần, rớc kiệu, đấu vật, chọi gà, múa võ, kéo co chơi
đu..v..v.. Vào dịp lễ hội nh thế, nhân dân làng Nguyệt Tiên và con cháu dòng
họ Đoàn tham gia tổ chức hoạt động nh: Dấng hơng, Tiến Lễ, vui chơi thể
thao... nhằm khơi dậy trong tinh thần yêu nớc, lạc quan. Thông qua các hoạt
động này, nhân dân, con cháu càng hết sức tự hào về quê hơng, dòng họ đã có
đền cống hiến cho đất nớc nhiều anh hùng nghĩa sỹ có công với dân với nớc
nh Đoàn Nhữ Hài.
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài không chỉ làg nơi gặp
gỡ các thế hệ con cháu trong dòng họ, hội tụ những ngời " có tâm, có
đức" ở khắp mọi nơi trong một ý thức trở về cội nguồn, dân tộc; mà còn
là những hành động mang tính nhân văn rất cao.
Việc tế lễ, lễ hội ở đền thờ Đoàn Nhữ Hài có
nhiều sinh hoạt đa dạng, phong phú, không những đã khơi dậy và làm sống lại
các hoạt động văn nghệ truyền thống, thể thao đầy lạc quan mà còn mang tính
nhân văn khac nh: vào ngày mất của ngài
(125-3 âl), ngày sóc, ngày vọng, tết thanh minh... nhân dân trong vùng
và con cháu dòng họ từ bắc chí nam lại quây quần về đền làm lễ tởng niệm vong
linh Đoàn Nhữ Hài. Đồng thời, cùng ôn lại cuuộc đời, sự nghiệp cống hiến của
ông để nhân dân và con cháu ghi nhớ và noi theo.
VIII- Trạng thái bảo quản:
Nghiên cứu thần phả, sử cũ, sắc phong và các
tài liệu liên quan cùng với kết quả điền giả thực tế cho thấy:
Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đợc xây dựng từ thời
hậu lê do Đoàn Viết Yến - tri huyện Quỳnh Lu, là con cháu dòng tộc chủ công
xây dựng lên. lúc đầu quy mô đền thờ còn đơn sơ. Dới triều đại nhà Nguyễn,
đặc biệt là Đời tự Đức Nguyên niên, Đền thờ Đoàn Nhữ Hài đợc nhân dân và
dòng họ trùng tu, xây dựng với quy mô đồ ssộ gồm các công trình sau: Cổng tam
quan, sân vờn, hạ điện, trung điện, thợng điện, hữu - tả vu và 01 nhà soạn
lễ... nơi nổi tiếng quý và linh thiêng.
Trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, do gần trục đợc giao thông chính ( quốc lộ 1A) nên khu
vực đền chịu sự tàn phá lớn của bom mỹ. Các công trình h hỏng nhiều, đồ tế
khí mất mát, h hỏng phần lớn.
Sau khi chiến tranh kết thúc, vùng đất có di
tích đợc quy hoạch thành vùng trồng cây của xã, di tích dần dợc phục hồi
với các công trình, bái đờng, tả vu...
Hiện tại do điều kiện kinh phí, phần cổng
tam quan và hàng rào bao quanh di tích cha đợc phục hồi.
Việc bảo vệ và phát huy tác dụng di tích đợc
chính quyền địa phơng và con cháu trong dòng họ hết sức quan tâm. Hiện nay
có ban lễ nghi và bảo vệ gồm 12 ngời, và sự phân công chặt chẽ trong hoạt
động. Các sinh hoạt văn hóa, lễ hội ở di tích đợc tổ chức chu đáo và trang
nghiêm.
Đền thờ Đoàn Nhữ Hàđã và đang thu hút đông
đảo nhân dân và khách thập phơng đến tham quan tởng niệm. Chính quyền địa
phơng và con cháu dòng họ Đoàn có kế hoạch trùng tu, tôn tạo di tích theo hớng
phục hồi cổ, trả lại dáng vẻ ban đầu cho di tích.
|