TỪ ĐƯỜNG ĐOÀN TỘC –PHÍA NAM
SỐ 185 HỒNG LẠC P.10 Q. TÂN BÌNH –TP. HỒ CHÍ MINH
Điện thoại: 08-39713705 – Ô. Đoàn Đức Thanh.

Lịch sử hình thành:
Nhà Từ Đường Đoàn Tộc tại Phía Nam được xây dựng trên nền đất 12,4mx30m mua từ năm 1970, do bà con Đoàn Tộc sinh sống và làm việc tại Sài Gòn đóng góp, nhằm mục đích thờ cúng và tưởng nhớ đến ông bà Tổ Tiên. Trong suốt thời gian qua, Từ Đường Đoàn Tộc đã là nơi liên lạc và tiếp đón rất nhiều các chi Họ của Đoàn Tộc tại Phía Nam cũng như bà con Đoàn Tộc phương xa khi dừng chân tại TP. Hồ Chí Minh. Bằng sự đóng góp về vật chất và tinh thần của toàn thể bà con Tộc Đoàn với Tổ Tiên. Ngày13/9/2010 Nhà Từ Đường đã được xây dựng và hoàn thành vào ngày 4/5/2011.
Nơi dừng chân và thể hiện tấm lòng của bà con Đoàn Tộc với Tổ Tiên
Nhà từ đường gồm 2 tầng:
Tầng trệt là nơi bà con có thể họp mặt, tìm hiểu trao đổi các thông tin về Tộc Họ.
Tầng 2 dành hoàn toàn cho việc thờ cúng tổ tiên họ Đoàn, bên phải của gian thờ chính có một phòng thờ riêng cho Hoàng Hậu Đoàn Quý Phi – Thân mẫu của chúa Nguyễn Phước Tần- Tiền tổ của triều đại Nhà Nguyễn.
Nơi lưu giữ các thông tin về Đoàn Tộc:
Nhà từ đường Đoàn Tộc có các tài liệu, gia phả gốc của Tộc Đoàn qua các thời kỳ từ khi vua Lê Thánh Tông mở cõi vào phía Nam, đến các cuộc di dân gắn liền với lịch sử vào các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình Định…. Đồng thời nơi đây cũng có các tư liệu và các thông tin liên lạc của Họ Đoàn Việt Nam, các nhà thờ tại Hải Dương, Nghệ An.
ĐỜI VUA LÊ HIỂN TÔNG (1760) Hạt giống Đoàn Tộc Đông yên khởi nguồn từ ông Thái Thỉ Tổ ĐOÀN ĐẠI LANG tự là An Phận, cùng bà Nhứt nương hiệu An Tâm. Nguyên quán tỉnh Hải Dương, Phủ thừa tuyền hạ hồng, Huyện Gia Phước, xã Khuôn Phụ. Ông, Bà sanh hạ 1 trai và 1 gái Trai là ông Đoàn Công Huyền Gái là bà Đoàn Thị Yểm Vào đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức nguyên niên (1+70) ông phò vua dẹp loạn Chiêm Thàn, lập nên công lớn trong việc bắt vua Chiêm là Trà Toàn Chiếm sự xong vua hạ chiếu ban sự hồi trào. Ông Đoàn Công Huyền xin lệnh trên ở lại đất Quảng Nam. Thời bấy giờ gọi là Quảng nam xứ (Từ thuận hóa trở vào) Ông quy dân lập ấp, khai khẩn ruộng đất thành lập xã hiệu đặt tên là đông yên Châu, gọi là Quảng Nam xứ Thang Ba Phủ, Hà Đông huyện, Đông Yên Châu. Tây giáp Chiêm sơn phù ….. Nam giáp cửa eo Hàm Rồng, Bắc giáp Trường Giang đại thú, hướng Đông dỉ giang di giới. Tang đố liên miên, …. Cực mục. Nghĩa là trồng dâu nuôi tằm tiên tiếp, ngó tột mắt đến chợ …. Tức là Cầu Câu Lâu bây giờ. Vậy ông Thỉ của chúng ta là ông “Bổn Canh Khai Cơ Đoàn Công Huyền vợ là bà Đào Thị Có, sanh hạ được 3 trai và 3 gái. 1./ Đặc Tấn Phụ Quốc, Thượng Tướng Quận, Cẩm y vệ, Đô chỉ huy sứ, tụ chỉ huy sức chưởng vệ sự thạch cuốn Đoàn Công Nhạn. 2./ Cai xã vệ thắng Bá Hầu Đoàn Công Tín (còn gọi làông Tấn 3./ Ông Đoàn Công Luận Ba người con gái là – Bà Đoàn Thị Dũ -Bà Đoàn Thị Sa -Bà Đoàn Thị Dữ Như vậy tộc ta bái đầu có 3 phái PHÁI NHỨT A./ Đặc tấn phụ quốc, Thượng tướng quân, cẩm y vệ, Dô chỉ huy sức, ty chỉ tuyên huy sức chưởng vệ sự Thạch Quận Công ĐOÀN CÔNG NHẠN. Ông được Chu Tiên phong “Tham tướng Chơn Nguyên Hầu” củ soát các huyện Ông có nhị thê : a./ Chánh thất bà LÊ THỊ DUYÊN sanh hạ 4 trai và 1 gái 1./ Phò ma Đoàn Công Khanh (hứa) vô tự (không có con trai) 2./ Ông Khám Lý Sầm oai hầu Đoàn Công Quảg (Đông yên Đông) 3./ Ông Đoàn Công Vi (Dực) ở tại Duy Trinh, Duy Xuyên 4./ Ông Đoàn Công Minh (Lập) ở tại Duy Trinh, Duy Xuyên Bốn ông đều được chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần phong “quốc cực” Gái là bà Đoàn Thị Cường b./ Thứ thất bà Võ Thị Ngọc Thành, sanh hạ 1 gái là Đức Bà Đoàn Thị Ngọc Phi. B./ Đặc Tấn Phụ Quốc, Thượng Tướng quân, Cẩm y vệ, đô chỉ huy sứ, ty chỉ huy sức thông chưởng quân quốc trọng sự tống Đốc quan, Tặng “Quốc cực, Khám lý sẩm oai hầu Đoàn Công Quãng ông cùng bà Đặng Thị Huệ sanh hạ được 3 trai và 5 trai. Ông đứcng tiền hiền làng Đông Giáp tức là Đong Khương bây giờ. Ba trai là : 1 Chưởng kỳ vệ sự nghĩa sơn hâu Đoàn Công Gia, sanh hạ con cháu tại Đông Giáp. 2./ Chưởng Khám Lý Thắng Sơn ….. Đoàn Công Đợi, sanh hạ con cháu và đứng Tiền Hiền Tại Trung Thái (chợ Chùa) Duy An, Duy Xuyên. 3./ Cai phủ trang sơn hầu Đoàn Công Huy, con cháu hiện phần đông sanh cư tại TP.HCM. *Đặc biệt Đức Bà Đoàn Thị Ngọc Phi, sinh năm Tân Sửu (1601). Hiện nay trong dân gian còn truyền tụng bà về tài văn thơ đối đáp. Theo văn nghệ nhân gian tập 1 (QNĐN) trang 0 có ghi. Nguyên Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan lúc còn trẻ sống với cha là Thụy Quận Công Nguyễn Phước Nguyên đang trấn thủ tại Dinh trấn Thanh chiêm ở Quảng Nam. Và một đêm trăng công tử Phước Lan cùng cha thả thuyền dong chơi trên dòng sông Thu Bồn. Phon cảnh hữu tình lòng người đắm say, giữa đêm trang thanh vắng bỗng cón tiếng hát véo von vọng lại: “Tai nghe chúa Ngự thuyền rồng Thiếp thương phận hiếp má hồng nắng mưa Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình” Nghe tiếng hát lạ, thuyền rồng vội ghé đậu ở ghềnh Điện Châu, dưới bóng dâu xanh nhuộn ánh trăng vàng Nguyễn Phước Lan đã gặp mười con gái họ Đoàn mến tài ứng đối thơ văn của bà Chúa cho rước về cung. Và người con gái họ Đoàn bên dòng sông Thu bồn kia về sau trở thành Hiếu Chiêu Vương Hoàng Hậu, mẹ của Thái Tôn Nguyễn Phước Tần. Hiện nay tại Chiêm Sơn, Duy Xuyên, về phía Tây Gò Cốc Hùng còn có Lăng Vĩnh Diêm “thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu”. PHÁI NHÌ Cai xã vệ thắng Bá Hầu Đoàn Công Tín còn gọi là ông Tấn. Ông có nhị thê: a./ Chánh thất bà NGUYỄN THỊ CÓ sanh hạ 8 trai và 2 gái b./ Thứ nhất bà ĐẶNG THỊ NIN (tức là bà Hè) sanh hạ 2 trai và 2 gái …. Đoàn Công An => sanh con cháu ở Tân An, Quế Sơn Bình Đào, Bình Triều thăng bình 2./ Ông Trọng Đoàn Công Hiến => không thấy ghi chú ở đâu 3./ Ông Triều Đoàn Công Kiểm => sanh con cháu ở An Lâm, Duy Hòa, Duy Xuyên. 4./ Ông Cẩm Đoàn Công Quới => sanh con cháu ở Ngọc họ, Tam Kỳ 5./ Ông Phú Đoàn Công Bổn => sanh con cháu ở Duy Trinh, Duy Xuyên. 6./ Ông Ký Đoàn Công Tá => sanh con cháu ở Ngọc Sa, Điệu Bàn 7./ Ông Diệu Đoàn Công Triều => sanh con cháu ở Quế Trạch, Mông Lãnh, Quế Sơn, Bình Chánh, Bình Định, Thăng Bình. 8./ Ông Đoàn Công Diên => sanh con cháu ở Xuân Phú, Quế Sơn. 9./ Ông Đoàn Công Thế 10./ Ông Đoàn Công Tùng PHÁI BA Ông Đoàn Công Luận, ông có tam thê. a./ Chánh thất bà Kim sanh hạ 4 gái b./ Thứ thất bà Phạm Thị Nhị Nương sanh hạ 4 trai c./ Thứ thất bà Nguyễn Thị Phú sanh hạ 1 gái Bốn người con trai : 1./ Ông Đoàn Công Trần không có con trai 2./ Ông Đoàn Công Hải không có con trai 3./ Ông Đoàn Công Danh sanh hạ ông Đoàn Công Thắng con cháu hiện sanh cư tại Phiếm Ai, Hòa Duân, Đại Lộc. 4./ Ông Đoàn Công Lâm không có con trai Để rút gọn theo tôn đồ hiện có xin tóm lượt như sau : Cháu 4 đời của ông Thỉ trở xuống Ông Đoàn Công Nghĩa sanh con cháu lại thăng bình. sanh con cháu lại thăng bình. -Cháu 5 đời của ông Thỉ trở xuống Ông Kim Tài Hầu Đoàn Công Luân sanh con cháu lại Tam Kỳ, Núi Thành Ông Đoàn Công Phương sanh con cháu tại Tây Thành, Nam Bộ. -Cháu 7 đời của ông Thỉ trở xuống Ông Đoàn Công Nghĩa sanh con cháu tại Hòa Duân, Đại Nghĩa huyện Đại Lộc. -Cháu 8 đời của ông Thỉ Ông Đoàn Công Tuyên sanh con cháu ở Đông Phú, Quế Sơn -Cháu 9 đời của ông Thỉ Ông Đoàn Công Đạo sanh con cháu ở Đông Phú, Quế Sơn -Cháu 11 đời của ông Thỉ Ông Đoàn Công Mạo sanh con cháu ở Định Quán, Lâm Đồng và Sài Gòn Kính thưa bà con nội ngoại thân tộc; Thời Gian đã quá dài hơn 5 thế kỷ trôi qua, con cháu càng ngày càng đông lại thêm đất nước bị chiến tranh liên tục và kéo dài, làm sao tránh khỏi mất mát, thất lạc. Nhưng tộc chưa đủ điều kiện, kế hoạch thống kê, bổ sung lược thuật tất ảc các chi phái dòng tộc, bầu làm nền tảng căn bản cho tộc và đảm bảo tương lai cho con cháu mai hậu. Hơn nữa việc sưu tra lại gặp lắm khó khăn trở ngại, văn kiện lưu trữ đã quá lâu bị hư rách, sự khác biệt giữa chữ Nho và Quốc Ngữ. Các vị cao niên am tường Nho ngữ cũng đã mòn mỏi khá nhiều, lớp trẻ kế thừa lại không rành rẻ, hoặc không biết chữ nho. Điều nầy cũng là nổi bâng khuân, trăn trở chung của mọi người. Việc sao dịch thành Quốc Ngữ là việc phải làm để con cháu dễ truy tìm. Kính thưa tất cả bà con Nhưng dù sao đi nữa đã là tộc Đoàn thì đều cùng một dòng máu mà sanh ra. Vậy tộc kêu gọi tất cả con cháu, anh em thực hiện các điều sau đây. 1./ Bất kỳ ở đâu họp lại cũng đều phải đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ nhau hết lòng vì ruột thịt. Thật lòng xây dựng cho nhau trở thành người công dân tốt, hữu ích cho tộc, cho xã hội. Biết sai để sửa, trọn đời gắn bó với tộc. 2./ Nghiêm cấm quan hệ nam nữ, hôn nhân dù là kẻ Nam người Bắc gặp nhau. Kể cả con cháu ngoại 3 đời trở lại. Đây là luân thường của dòng họ là đạo lý của dân tộc. 3./ Chữ lót của dòng họ ta là chữ “CÔNG”. Vậy đề nghị con cháu nên giữ nguyên đừng tùy tiện thay đổi theo ý thích riêng của mình, để giữ sự thống nhất và bảo vệ truyền thống của dòng họ, hầu tránh sự nhằm lẫn lệch lạc đáng tiếc có thể xảy ra ở mai hậu. 4./ Tộc nhắc lại thể lệ của Tộc đã có từ trước đến nay, đã là con trai của tộc thù sau khi lập gia đình là một thành viên công dân tộc, kể cả con gái có lòng hiếu nghĩa nghĩ đến ông bà tổ tiên đều có quyền hạn, bổn phận và nghĩa vụ đối với gia tộc. 5./ Con cháu thừa truyền các chi nhánh phải có trách nhiệm và bổn phận về việc tu tảo phần mộ ông bà, trùng tu, bải quản từ đường, bảo vệ di sản của tổ tiên dòng họ. Lập hoặc nhật tu tạo đồ phổ hệ theo từng chi nhánh của mình, để tạo điều kiện giúp tộc tu chỉnh tôn đồ phổ hệ toàn tộc sớm được đầy đủ và chính xác hơn. Kính chúc vạn thọ an khương Cầu chúc tình thâm gia tộc đời đời bền vững Cầu hồng ân tiên tổ gia hộ tất cả chúng ta vạn sự an lành Trân trọng kính chào tất cả bà con Ban biên tập lịch sử và phát triển đoàn tộc Đông Yên ĐOÀN CÔNG BÁ TM.HỘI ĐỒNG GIA TỘC ĐOÀN TỘC THÔNG BÁO I./ Bảng tóm tắt GIA PHẢ 8 ĐỜI TRÊN CỦA ĐOÀN TỘC II./ ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC 1./ Nhà thờ tổ chính 1 xã Duy Trinh, Duyên Cuyên, Tỉnh Quảng Nam (trên đường đi Thánh địa Mỹ Sơn). 2./ Nhà thờ tổ chính tại 1532 đường Hồng Lạc, Phường 10, Quận Tân bình, TP.HCM Đoàn Chương ĐC Nguyễn Bá Tòng FII Quận TB, TP.HCM ĐT : 9710690 1532 Đường Hồng Lạc, TB |