|
Thông báo Gần đây
-
Đoàn Thị Thừa. Giai nhân Thời Trịnh Nguyễn phân tranh
Nguyễn Công Liệt. Viết Ngược dòng lịch sử: Chúa Nguyễn Phúc Tần
được tiếng là Hiền Vương là người tài đức vẹn toàn. Lịch sử ghi nhận: " Hiền
vương là ...
Được đăng 20:22 20 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
Đoàn Công Uẩn- một mãnh tướng thời Lê
Đoàn Công Uẩn- một mãnh tướng thời LêCập nhật: Thứ năm, 7/4/2011 | 9:58:40 AMỞ Thụy Trình, huyện Thái Thụy có một ngôi mộ cổ ...
Được đăng 19:09 17 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
Đoàn Nguyên Đức: Con đường trở thành ‘đại gia Việt’
Đoàn Nguyên Đức: Con đường trở thành ‘đại gia Việt’Posted on 18/07/2009 by tuanxipo40 năm trước cậu bé Đoàn Nguyên Đức hàng ngày chăn trâu trên ...
Được đăng 00:59 15 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
Ông chủ đầm tôm thích bay
Ông chủ đầm tôm thích bayNuôi tôm công nghệ cao vì Việt Nam chưa có ai làm, thành lập Air Mekong bởi thấy việc đi lại bằng đường hàng ...
Được đăng 00:52 15 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
HỌ ĐOÀN QUÊ TÔI NGÀY GIỖ TỔ
dimanche 7 mars 2010 18:30:06văn hóaHỌ ĐOÀN QUÊ TÔI NGÀY GIỖ TỔdoanducthanh-KIẾN TRÚC VIỆT: Họ Đoàn có mặt ở Việt Nam từ rất sớm ...
Được đăng 00:20 15 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
Dân chơi đồ cổ suốt từ Bắc vào Nam đều ngả mũ nón thán phục Tuấn Bun Hà Nội
Dân chơi đồ cổ suốt từ Bắc vào Nam đều ngả mũ nón thán phục Tuấn Bun Hà Nội
- đại gia của thế giới đồ cổ. Thán phục không phải ...
Được đăng 23:43 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
HỌ ĐOÀN VÀ CHẢ CÁ LÃ VỌNG
Chả
cá Lã Vọng, món đặc sản của người Hà Nội đã quyến rũ cả du khách bốn
phương."Chả cá - một kiệt tác nghệ thuật về món cá rán ...
Được đăng 23:35 31 thg 1, 2012 bởi Người dùng không xác định
-
Công nhận 6 di tích quốc gia
Công nhận 6 di tích
quốc gia
Các di tích này tại
các tỉnh Quảng Nam, Đắk Nông, Nghệ An và Thanh Hóa.
Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du ...
Được đăng 22:23 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
DoanLongKaratedo
Luôn đi ngược định mệnhLà cách bạn bè và gia đình gọi ông như thế. Theo sự nghiệp võ thay vì lẽ ra phải tránh vận động; uống rượu ...
Được đăng 21:38 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
-
Khởi nghĩa Đoàn Hữu Trưng.
Cuộc khởi nghĩa Đoàn Hữu Trưng xảy ra vào ngày 16 tháng 9 năm
1866 do Đoàn Hữu Trưng (còn được gọi là Đoàn Trưng) khởi xướng, có thể gọi ...
Được đăng 21:52 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
|
đăng 20:14 17 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
[
đã cập nhật 20:22 20 thg 11, 2011
]
Nguyễn Công Liệt. Viết Ngược dòng lịch sử: Chúa Nguyễn Phúc Tần
được tiếng là Hiền Vương là người tài đức vẹn toàn. Lịch sử ghi nhận: " Hiền
vương là người chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc, biết trọng nhân tài. Có người
con gái quê Nghệ An rất xinh đẹp tên là Thị Thừa được lấy vào cung phục vụ
chúa. Nguyễn Phúc Tần, nhân đọc sách Quốc ngữ, tới chuyện vua Ngô Phù Sai mất
nước vì nàng Tây Thi liền tỉnh ngộ sai Thị Thừa mang ngự bào cho chưởng dinh
Nguyễn Phúc Kiều, giấu thư trong dải áo ngầm sai Kiều bỏ độc giết Thị Thừa để
trừ hậu họa".
Tìm hiểu tư liệu và xác định
được Thị Thừa họ Đoàn, và có mối tình cảm với Nguyễn Hữu Cảnh (Người có công gầy
dựng cơ đồ về phương Nam). Tác giả cố gắng tái tạo lại lịch sử, âu cũng là cách
tìm mối liên hệ về ngày xa xưa ấy.
NCL.
ĐOÀN THỊ THỪA
Thị Thừa sống bên kia sông Gianh, khi đã được mười
sáu tuổi tiếng đồn sắc đẹp không thua gì Tây Thi. Nhà họ Đoàn đã là người của quân Trịnh, bọn lính tới
quán rượu chỉ cần nhìn ngắm Thị Thừa là thỏa mãn trong lòng. Vài tên ngà ngà
say, kháo rằng:
- Có con gái đẹp mà đem dâng cho Chúa Thượng, ắt được trọng thưởng ngay
đó.
- Thật à!- Nhà họ Đoàn cũng uống rượu với mấy chú lính, thích thú.
Biết con gái mình tiến cung sẽ được trọng
thưởng, nên cha nàng luôn tâm đắc việc đó và dự định một ngày đẹp trời nào đó
đưa nàng về Thăng Long. Ông muốn lập công trạng với triều đình, dù duy nhất có
một đứa con gái.
- Cha đã quên lời hẹn ước rồi sao? Chứ con không quên người đó...
- Nữ nhi thường tình, vừa đến tuổi dậy thì là đã biết yêu thương người khác rồi!
- Cha nàng không mấy quan tâm xem nàng nghĩ gì, ông chỉ mong sắp tới mình được
thưởng bổng lộc triều đình.
Thị Thừa nghe vậy rất phiền muộn,
nỗi nhớ mong khắc khoải trong lòng da diết. Kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên mấy năm
trước với Nguyễn Hữu Cảnh hiền hiện trong mắt mình.
Thời gian đó là vào năm 1656,
Nguyễn Hữu Dật cùng Nguyễn Hữu Tiến vượt sông Gianh đánh quân Trịnh tan tác,
cai quản được bảy huyện Nghệ An. Trong Bảy lần tranh chấp với Đàng Ngoài, cuộc
chiến lần thứ năm và lần lớn nhất trong cuộc xung đột Trịnh -Nguyễn. Nguyễn
Phúc Tần là vị Chúa chủ động đưa quân đánh ra Bắc, Chúa sai Nguyễn Hữu Tiến và
Nguyễn Hữu Dật mang quân vượt sông Gianh đánh Bắc Bố Chính tiến chiếm được bảy
huyện Nghệ An được năm năm. Chiến tranh liên miên giữa hai Chúa Đàng Trong và
Đàng Ngoài, người dân khốn khổ vô cùng. Có lúc phải chạy loạn lên rừng sống, có
lúc bị lấy hết lúa gạo phải đi tìm cái ăn rất nhọc nhằn, nhưng chinh chiến vẫn
không có ngày kết thúc. Trong hai danh tướng đánh ra Đàng ngoài, Nguyễn Hữu Dật
đối xử với muôn dân nơi chiếm đóng có tấm lòng, nên Chúa Nguyễn Phúc Tần yêu
quí hơn. "Tương truyền mỗi lần được chúa Nguyễn ban thưởng, ông thường
chia cho cấp dưới, nhất là những người nghèo khó, hoặc xét theo hoàn cảnh mà
ban thưởng. Bởi vậy ông rất được lòng tướng sĩ và nhân dân. Không những thế, đối
với tù binh, ông cũng đối xử rất nhân hậu". (tg trích ra từ dòng lịch sử).
Chẳng như trại lính đóng gần vài nhà dân, ông không cho đuổi đi hoặc quân lính
rầy rà, cứ để cho họ thoải mái trông lính tráng tập luyện. Hoặc có khi ông bày
kế cho họ may vá áo của lính và vẫn trả công họ đàng hoàng. Mấy nhà dân chạy
tán loạn trước đây, cũng quay về nơi ở cũ. Một vài nhà có nghề chày lưới vẫn kiếm
được một ít tiền nhờ bán cá, họ còn bán được mấy rỗ tre đan và đôi khi thắt
võng cho lính nằm ngủ nghỉ. Nguyễn Hữu Dật nói với ba quân rằng: "Ta chiếm
được đất, mà không có dân ở. Ta chỉ chiếm cục đất vô hình, chiến công của ta
không có gì là lẫy lừng. Có họ, mà ta vẫn đối xử tốt như dân mình, thì chiến
công ấy sẽ được nhân lên gấp bội".
Khoảng mấy năm
sau, Nguyễn Hữu Dật nhớ con cái quá mà cho người vượt sông Gianh về Nam mang
con ra vùng Nghệ An. Bà vợ Nguyễn Thị Thiện cũng là gốc người Thanh hoá, theo để
chăm sóc các con và chồng. Mấy đứa gồm Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Trung, Nguyễn
Hữu Kính (sau được gọi là Cảnh) và Nguyễn Hữu Tín cũng cùng cha ra xa trường.
Nguyễn Hữu Cảnh (xin được gọi tên theo hiện tại-tg) chỉ mới tám tuổi, người đen
đúa chỉ thấy được hàm răng và hai con mắt là trắng. Đám trai lớn chỉ thích trêu
ghẹo đến nổi nóng, thường hay thách đố đám lớn đánh nhau. Mặt mày xưng húp mà
cũng khoe khoang với bà Thiện: " Một mình con đánh nhau cả bọn". Bà
Thiện nổi giận la mắng mấy người anh, rồi cắt cử hai tên lính theo canh giữ, có
gì là thưa gởi ngay cho bà biết. Cho nên mấy đứa lớn chơi một lúc cũng bỏ rơi,
trốn bỏ Nguyễn Hữu Cảnh một mình.
Khi
quân Đàng Trong vượt sông Gianh, có một gia đình họ Đoàn rất đông con. Họ không
sao dẫn dắt các con mình chạy trốn kịp, cứ nghĩ con thơ nheo nhóc sẽ bị tàn sát
hết, nhưng quân lính của Nguyễn Hữu Dật không chém giết mà còn được bày kế làm
ăn. Cho nên họ cũng an tâm sống cạnh kề trại lính, hằng ngày vẫn xem lính cầm giáo
mác, la hét tập trận. Đám anh em họ nhà Đoàn xem nhóm anh em họ Nguyễn tập luyện
võ nghệ, mà bắt chước làm theo, từng đôi từng lứa trạc tuổi nhau chơi rất thân.
Mấy đứa lớn còn thích thú ra khoảng trống cổ vũ, một vài đứa còn hứa là lớn lên
đi theo Đàng Trong đánh quân Trịnh xem ra vui (Chúng không biết gì nghề chém giết).
Trong nhà họ Đoàn có một đứa con gái nhỏ- Thuở thời trọng nam khinh nữ, lại
thêm chinh chiến liên miên mong con trai đem về nhà chiến tích, nên đứa con gái
ấy có tên là Đoàn Thị Thừa. Lúc này Đoàn Thị Thừa được năm tuổi, gương mặt sáng
loáng tiếng nói nhỏ nhẹ nghe dễ thương, cũng biết được chút chuyện:
- Không ai chơi ...
- Kệ ta...
Nguyễn Hữu Cảnh ngồi dựa
lưng vào gốc cau, mấy dây trầu che phủ, lại đen đúa nên khó mà nhìn thấy. Cố
tình ngồi như vậy, để khi mấy anh có tìm cũng khó: “Ai biểu là em mà không
chơi, lại chơi với mấy anh em họ Đoàn kia”. Cô bé Thừa lấy bàn tay mủn mỉm vuốt
tóc rối, nhìn gương mặt quạu đeo buồn bực của Cảnh, nói theo mình biết:
- Mặt ca...ca dữ quá!
- Biết rồi!
Cảnh biết cô bé không sợ mình, mà nói vậy. Một lúc, cô
bé Thừa tỏ vẻ chín chắn mà bàn kế lâu dài:
- Ca à! mai mốt muốn muội chơi với ca hoài không?
- Muốn chứ...Mà làm sao chơi hoài với nhau được?
- Lớn lên, mình chơi với nhau hoài...là phải cưới nhau đó!
- Ờ! Ca lấy muội làm vợ...
- Đúng rồi! Vậy mình sẽ chơi với nhau hoài...
Nguyễn Hữu Cảnh ngẩm nghĩ một
đổi rồi la toáng lên:
- Mà chắc không được đâu!
- Ca nói sao không được?
- Vầy nè! Mình thấy là ông nội của ai cũng lấy bà nội. Ông ngoại lấy bà
ngoại, còn cha thì lấy mẹ mình...Mình với muội lạ quắc lạ quơ, đâu có bà con gì
đâu mà lấy nhau được.
- Thì lấy nhau rồi! Ca với muội bà con liền đó...
- Ờ há!
Xem ra về mặt tình cảm, Nguyễn
Hữu Cảnh thơ ngây hơn Đoàn thị Thừa nhiều bậc. Nhìn cô bé sáng láng, Cảnh cũng
muốn chơi trò trốn tìm. Vẫn đang núp trong đám lá trầu, Cảnh làm bộ hỏi:
- Đố muội tìm được anh?
- Kìa!
- Hảo!
Thế là tuổi thơ có một trò chơi vui với nhau, Cảnh chỉ
cần nghiên qua lại chứ không chịu đi đâu. Cho đến khi lão gia họ Đoàn về, hỏi mấy
đứa lớn có trông chừng đứa em gái nhỏ lọt xuống ao. Đám con trai lớn mới tá hoả
ra đi tìm, họ thấy ngay con bé đang đứng, mà Cảnh bị áng khuất trong đám lá trầu,
lại đen thui thủi nên cũng hoảng hốt:
- Có thấy Cảnh đâu không?
- Kìa...- Cô bé Thừa xoay lại,
những đứa trẻ hay lạc hướng nhìn nên tay chỉ thẳng xuống bờ ao.
Đầu tiên là ông lão họ Đoàn nhảy xuống, tới hai tên lính được
cắt cử trông coi cũng ùn ùn lao theo. Đám công tử con tướng Nguyễn Hữu Dật có mệnh
hệ gì, chắc chắn là bay đầu. Bốn năm người con họ Đoàn đều biết bơi, cũng xuống
ao vén lá sen lùng sục, sình bùn hôi hám bốc mùi. Cô bé Thừa không biết vì sao
ai cũng nhảy xuống ao làm gì, liền quay lại rủ Cảnh ra coi.
- Huynh Cảnh ra coi bắt cá!
Hai đứa chòm người vào bờ
ao xem, những người mò mẫm tìm xác Cảnh không thèm ngó lên một cái. Bấy giờ bà
Nguyễn Thị Thiện đang thêu thùa cùng bà vợ nhà họ Đoàn, hay tin có đứa con nào
đó của bà rớt xuống ao. Chạy nhanh ra đứng gần Cảnh, vừa hỏi vừa đếm lại mấy đứa
con thấy đủ:
- Ai té?
- Con...
- Là sao?
- Mấy người đó mò tìm kiếm con.
- Mấy người tìm kiếm gì mô?- Bà
vợ họ Đoàn cũng hỏi.
- Cậu Cảnh...
- Cậu Cảnh đứng trên này đây,
tìm chi rứa...
Bấy giờ mấy người kia mới dừng tay,
ngước lên thấy Cảnh cũng còn tò mò không biết họ tìm gì hăng hái thế. Mọi người
cười ngất ngây, lên bờ mà còn ôm bụng cười.
- Chỉ vì cậu Cảnh đen thui thủi
không dễ nhìn thấy...
- Cái con bé Thừa này, chơi cắc
cớ...
- Không chơi cắc cớ...Chỉ tại
chúng ta không chịu hỏi kỹ. Cái tay nó chỉ cong xuống hồ, chứ ý nó thì nói là
sau cái dây trầu.
Hai người lính vừa có ý mừng,
vừa có ý tuổi hổ. Nhìn con bé Thừa xinh xoắn phán cho một câu.
- Hoạ vô đơn chí là ngươi đó
nghe chưa?
Hai tên lính cố tình “lùa” mấy
anh em Nguyễn Hữu về doanh trại. Trời cũng đã ngã xuống núi, cuộc chơi của mấy
đứa nhỏ cũng dừng lại. Hai bên ngoắc tay hẹn hò mai chơi tiếp, Cảnh cũng liếc
Thừa vì hai đứa để cho người lớn một vố vui ghê: “Ai biểu mấy đứa lớn không cho
mình chơi chung”. Tạm biệt cô gái nhỏ xinh xoắn, còn mình là cục than đen được
mẹ dắt tay về.
Chuyện ấy chưa đến độ nghiêm trọng,
nhưng trách nhiệm hai tên lính không phải là không có. Chúng bị quở trách, rồi
buồn rầu xin sang phục dịch ở cánh quân Nguyễn Hữu Tiến. Đó là người vị kỷ, hay
ưa dèm pha. Bởi vì Chúa Nguyễn Phúc Tần luôn luôn thương yêu Nguyễn Hữu Dật nên
lúc nào cũng có ý ganh tỵ.
- Ta biết Nguyễn Hữu Dật có ý
đưa vợ con ra Đàng ngoài, quê ở Thanh Hoá thì tìm cách về lại đất Thanh hoá đó
thôi.
Trước đây năm 1650, Nguyễn Hữu Dật có lần bị
chúa Nguyễn bắt nhốt. Nguyễn Hữu Dật định dùng kế trá hàng chúa Trịnh, viết thư
hẹn về hàng Bắc hà. Tôn Thất Tráng liền tâu chúa Nguyễn rằng ông muốn theo chúa
Trịnh. Chúa Nguyễn Phúc Tần liền bắt giam. Trong ngục, ông viết tập thơ ‘‘Hoa
Văn cáo thị’’, tỏ nỗi oan khuất. Chúa Nguyễn lại tha ông ra, sai làm tướng đánh
ra Nghệ An.
Nguyễn Hữu Tiến người thẳng thắng,
một lòng trung thành với triều Nguyễn. Cho nên ông có phần nào đó nghi kỵ Nguyễn
Hữu Dật cũng đúng, lại thêm Nguyễn Hữu Dật được lòng chúa Thượng nên có dịp là
hay dèm pha: Ý đồ của Nguyễn Hữu Dật là mong muốn con cái ra chiến trường càng
sớm càng tốt, trong khi đó thì bị nghi kỵ có ý theo quân Trịnh.
Thuở nhỏ, Nguyễn Hữu Cảnh rất mê bắt cá rô. Ở Nghệ An, cá rô
rất nhiều. Anh em nhà Nguyễn Hữu và anh em nhà họ Đoàn hẹn hò nhau đi tát đìa,
hôm đó đứa con gái nhỏ đòi theo. Nguyễn Hữu Cảnh chỉ đứng cách bờ ao vài mét, mấy
người kia cười nhạo là đen mà còn sợ bị dính sình, nên cố ném vào người Hữu Cảnh.
Thị
Thừa ngồi ở trên bờ ao sen, cười ngây ngất chỉ mấy con cá rô đang mắc kẹt trên
sình:
- Huynh Cảnh...Ô...hô, con rô...
Mấy đứa anh chê cá rô
nhỏ không thèm bắt, cả bọn lao ra giữa đìa chụp lấy con ba ba lật ngửa bỏ vào
cái lợp bằng tre. Nhóm trai trắng trẽo bắt khá nhiều cá lóc lớn, cá trê đen và
còn đòi tìm nơi nào đó bắt thêm nữa.
- Cảnh không chịu đi, anh em ơi tô sình thôi...
Trước mặt con gái, Cảnh ráng mà giữ
mình cho sạch sẽ. Mấy đứa anh ném sình bùn đầy người, Cảnh rửa ngay sợ Thị Thừa
chê dơ. Nhưng bọn con trai biết tính ý, một đám kéo tới thoa sình bùn từ đầu tới
chân, Hữu Cảnh như một con cá trê đen sì lì. Cảnh giận nhảy lên bờ đê, còn nói
là về chứ không theo nữa:
- Về đi!- đám lớn đuổi khéo, Cảnh tiếc về sớm cũng sợ Thị Thừa không
theo.
- Trời đang chuyển mưa, cá rô thích đẻ ở bờ đê...- Cảnh nhắc khéo
và rủ rê Thị Thừa - Bắt cá rô dễ hơn là theo bọn họ, muội theo ta
không?
Trời đang chuyển
mưa đầu mùa, Cảnh nói với Thị Thừa khỏi cần tắm. Nước mưa sẽ xối sạch sẽ, còn bắt
được cá rô chạy trên đất cạn. Cả hai vui vẻ đi băng qua đồng cỏ, mưa bắt đầu
rơi hạt. Cảnh lấy tay quàu tóc cho sình chảy xuống, Thị Thừa cũng tiếp kỳ cọ
phía sau lưng.
Hai đứa trẻ thấy hai
con cá rô rượt nhau trên mặt cỏ, đuổi theo như cách thức truyền giống của loại
cá này. Tiếng cười vui, quên đi mây đen càng lúc tới. Cả hai mới hay mình đi
hơi xa, không biết mấy đứa anh trai đang ở đâu. Cảnh rủ Thị Thừa chạy vào căn
chòi làm bằng lá chuối, phía dưới tán tre rộng. Hai đứa ngồi sát bên nhau cho ấm
áp, Cảnh chín tuổi nên cũng đã biết mắc cỡ, biết nam nữ không gần gũi nhau nhiều.
Thỉnh thoảng, ánh chớp lóe sáng lòa Thị Thừa sợ quá Cảnh ôm chặt để trấn an.
- Về nhà thôi à!- Thị Thừa sợ.
Cá rô nhảy lốc cốc trong lợp
tre, nước mưa làm nó trôi theo hướng dốc. Cảnh không quan tâm nữa, phải men lần
về nhà của Thị Thừa sưởi ấm thôi.
Ở Nghệ An thường khi nắng gắt, sông
suối khô cạn, đồng lúa cháy khô. Đến lúc mưa thì gió lốc cuồn cuộn, mưa xối xả
như trút nước làm ngập lụt mọi nhà...Trong khi đó, ở túp lều tranh liêu xiêu của
nhà họ Đoàn, nước mưa bắt đầu ngấm qua mái lá. Người đàn ông họ Đoàn nhìn mưa
ào ào ngoài trời, xót ruột muốn ra kéo trâu vào chuồng. Bờ ruộng lập xập nước
đang dâng trào, cuối cùng thì bờ đê cũng chịu thả nước qua đồng. Trong chốc
lát, bờ ruộng không còn thấy đâu nữa.
Bờ
tre rung lắc, nghiên nghiên ngã đỗ. Nước ở mô, đang dâng lên từ ghềnh cao đổ xuống
sông. Mấy thằng con cùng với mấy người con của Tướng Công Nguyễn Hữu Dật đi tát
đìa bắt cá từ trưa, chắc đang núp tạm ở đâu đó. Người vợ đang cố đốt lửa để nấu
nước. Lo Lắng nhìn vợ rằng, không biết các con có làm gì rầy rà với anh em nhà
Nguyễn Hữu không?
Xa xa ngoài đồng
trống, mấy con trâu kêu gào vì trời đang sấm chớp. Nhà họ Đoàn nhơn nhớn, nét mặt
ngờ nghệch. Lúc đầu thì có lo lắng thật, rồi bỗng chốc thấy nhà cửa vắng hoe. Mấy
khi có trời mưa rỉ rả, nên có chút nổi hứng:
- Mặc xác bọn chúng, bà lại đây...
- Gớm rứa! Sáu con rồi mà cũng đòi...
Người vợ nhà họ
Đoàn vùn vằn một chút, rồi cũng đồng tình. Trong sự đồng tình ấy cũng có chút
thở dài, kiếp người làm gì mà lại mắc mứu những cái tật truyền kiếp của tự
nhiên, để rồi con cái lại sinh ra đàn đàn đống đống, khổ thân đàn bà. Trong mái
nhà tranh lêu xiêu ấy, gió đàn đưa ngã nghiên cũng có, mà do hai con người
trong ấy cũng có.
Núi đồi hoang vu,
mái nhà tranh nằm heo hút không biết tự bao giờ. Thỉnh thoảng con người thắc mắc
vì sao mình lại ở đây, cũng như họ thắc mắc rằng từ khi khai thiên lập địa, người
ta cứ loay hoay với việc chung đụng với nhau thế này tự bao giờ? Người nhà họ
Đoàn, cũng không biết vì sao mình ham thích quá hoắc với vợ suốt, cứ hễ vắng vẻ
là trong lòng sinh tình. Người nhà họ Đoàn là một người rất là ngu ngơ, đôi khi
cũng không biết kiểu truyền giống của mấy con trâu nuôi ngoài đồng, mình có giống
như vậy không. Người nhà họ Đoàn không biết vì sao mình sinh con, chỉ biết mỗi
lần chung đụng với nhau như vậy thì một khoảng thời gian nào đó người vợ mang bầu.
Đôi khi còn nghĩ là vợ ăn phải măng tre có đầy ấp ở sông suối Nghệ An, hoặc là
ông Trời làm gì đó, mấy đứa nhỏ mới được đầu thai.
Người đàn bà thì
biết, tuy sinh đẻ nhiều nhưng cũng lo lắng:
- Rứa! Có đẻ nữa thì đặt tên gì...
- Có con Thừa, thì tới đứa tên Mứa...Chứ
tê!
Cảnh với Thị Thừa
lần mò về gần tới căn chòi lá, nghe tên mình Thị Thừa nhìn vào trong rồi rụt lại.
Cảnh cũng nhìn thấy hết, nên sợ quá dắt Thị Thừa đến sát ao.
- Lấy sình thoa người huynh đi...
Cảnh lấy đất bên
cái ao, thoa khắp người. Thị Thừa cũng sợ quá, Cảnh móc sình lên là thoa ngay
trên người Cảnh. Cảnh cứ nghĩ, mình bị sình bùn che lấp là mình không có thấy
gì hết. Hai đứa trẻ lui cui, nói rất khẻ nhưng khoảng trống lặng của cơn mưa
nghe có tiếng trẻ con. Nhà họ Đoàn giựt mình, cột lại cái khố đen. Hết hồn thấy
đứa con gái mình, đang bị một con quái vật bắt sống. Nhà họ Đoàn nhanh tay mang
cái dao rốc tre, nhọn hoắc. Hét lớn một tiếng, nhảy xổ ra bờ ao.
- Con ma nào...
Thị Thừa hoảng
hốt, xua tay mà rằng:
- Huynh Cảnh...Thầy tha...thầy tha...
Suýt mất mạng,
Cảnh gạt sình bùn ở mắt ra:
- Con không thấy chú thiếm làm gì đâu, thiệt mà...
Thấy Cảnh chối leo lẽo,
nhà họ Đoàn mắc cỡ đi một mạch vào trong. Người vợ hỏi:
- Răng rứa?
Nhà họ Đoàn, giãy nảy với vợ:
"Tụi nó thấy chọi, độn thổ lên rừng thôi". Lúc ấy, bà Nguyễn Thị Thiện
đi cửa sau của dinh lũy sang. Bà thấy mưa nên muốn xem con cái mình đang làm
gì, mới hay là đám lớn còn bắt cá chưa về rất xót ruột. Nhà họ Đoàn đem cất con
dao, mang Thị Thừa vào lửa cho ấm, rất ái ngại sợ Cảnh mét bà mấy chuyện vợ chồng
nhưng không biết phải dặn dò cậu chuyện gì trước. Một lúc sau, đám lớn về, mấy
đứa run cầm cập. Hôm đó ai cũng phải nằm sốt mấy ngày, riêng cảnh thì không hề
hấn gì. Từ nhỏ, cậu nổi tiếng là người có sức khỏe phi thường, dầm mưa đội nắng
đều không sao.
Ngay sau đó, nhà họ Đoàn trốn
ra ngoài cái chòi trống không ngoài đồng ruộng, ở đó để không nghe bọn lính
tráng chọc ghẹo.
Trong đời sống vợ chồng,
thể nào cũng có lúc sơ ý để con cái thấy. Căn nhà tranh nhỏ bé mà con cái thì
đông, nên việc che lấp mọi thứ là chuyện khó. Mấy tên lính thắt lại được mấy
con chó từ bông cỏ đuôi chó, rồi dụ dỗ Thị Thừa kể chuyện. Bọn người xa vợ xa
con đoán chắc là nhà họ Đoàn thể nào cũng có quan hệ gần gũi, cứ nghĩ là đứa bé
gái nhỏ ấy không biết gì. Ai dè, thấy có đồ chơi thì nó kể sạch cho mấy chú
lính nghe hết chọi.
Mấy tên loay hoay mãi câu
chuyện gái trai, còn trêu ghẹo một người có vẻ trầm lắng. Anh này bị một vết
thương nặng ở bộ hạ, cho nên bị cho là hết còn ham hố gì nữa.
- Tao đã nói mày, lúc giáp trận là cứ đâm thẳng vào bụng nó...nhảy
sang một bên liền. Cái đầu coi bộ né nhanh lắm, nhưng ở dưới người ta hay coi
thường, chuyện gì thì cái giáo nó tới rồi.
- Đúng ra, tao bị thương tật như vầy. Tướng công cho tao về nhà mới
phải.
Tên lính buồn thương nhớ
về nhà, còn những người kia không muốn nghĩ ngợi giống hắn.
- Ở đó mà về, còn đi đứng được thì còn xông pha ngoài xa trường.
Mày có về thì con vợ có ưa thích mày nữa không...Hì hì, đàn ông mình mất cái đó
thì chết cho rồi...
- Đánh qua đánh lại hoài, mình chém đầu được mấy thằng lính của
Chúa Trịnh, rồi lúc nào đó tới mình bị chém lại thôi.
Cả bọn hình dung lại các trận
đánh, một đám quần nhau loạn xạ và ngạc nhiên sao mình không bị bay đầu. Lúc
xông pha vào nhau, trạng thái con người cứ lơ mơ kinh hãi, cứ chém càn rồi lấy
khiên ra đở. Tới lúc, hoàn hồn thì thấy quân mình còn lại nhiều hơn thì thắng,
nhìn thấy chủ soái hài lòng khen ngợi gì đó. Con người lúc ấy mệt lữ, chỉ muốn
nhìn lại bàn tay mình nhơ nhuốc chém được bao nhiêu người và thắc mắc vì sao
còn ...sống.
- Có ai biết, tụi mình vì sao đánh nhau hoài vậy...
Cả bọn suy nghĩ một
lát không trả lời được. Trai tráng phải tham gia binh biến, rất nhớ về quê nhà.
Họ không hiểu sao phải đánh nhau suốt, nghe lời truyền miệng là đánh nhau từ
lúc nào rồi. Khi họ lớn lên thì lính ập đến nhà, bảo rằng họ phải đi làm lính.
Bỏ ruộng vườn lại sau lưng, đi đánh nhau còn nghe dễ được thăng quan tiến chức...Biết
đâu, ngày nào đó mình làm dũng sĩ, sẽ trở lại quê nhà với mẹ già.
Bọn người dân đen không biết
chuyện gì, khi sinh ra đã nghe đánh nhau nhiều trận rồi. Lớn lên khỏe mạnh, bỗng
dưng có người bảo phải đi lính, rồi bắt đi lính. Trong đội quân chỉ có dạy nhau
cách chém giết nhau sao cho hiệu quả, chứ không mấy ai nói lý do phải đánh đấm
nhau cả đời như vậy.
Bà Nguyễn Thị Thiện là người hòa đồng,
rất gần gũi với người vợ nhà họ Đoàn. Trông thấy căn lều liêu xiêu, bà gọi mấy
tên tán gẫu sửa chữa căn nhà dột nát của họ. Bà Nguyễn Thị Thiện cho đám lính
tiếp giúp, thỉnh thoảng bà ngồi chuyện trò và giải thích vài điều thắc mắc:
- Gần một trăm năm trước, nhà họ Trịnh đã lạm quyền ám hại nhà họ Nguyễn.
Chúa Nguyễn Hoàng lấy cớ vào Thuận Hóa, vừa tránh né hiễm họa vừa đánh nhà Mạc.
Phía ngoài, chúa vẫn không ưng cứ lo rình rập muốn diệt nhà Nguyễn tận gốc.
Đám lính nghe bà nói, không dám hỏi thêm
cớ sự tỏ tường. Cả ngày trời lo tháo dỡ và lợp lại căn nhà tranh. Bên cạnh có dựng
tạm một gian nhỏ làm quán nước để lúc rỗi rãi lính có nơi giải khuây. Người dân
đã quen với việc quân Nguyễn ra xứ Nghệ. Xung quanh trại lính, lát đát có vài
căn lều che tạm, đã hình thành một khu dân cư thường khi trao đổi buôn bán.
Ngồi trên cao lợp tranh, vài tên thấy
ngoài triền sông lố nhố quân mình tăng viện. Mấy tên lính đứng thẳng trên những
chiến thuyền, giáo mác chĩa lên trời mới đủ chỗ sang sông. Ngang nhiên như chỗ
không người, chưa lần nào Đàng Trong có ý tiến công ra Bắc, nên lần tập kết nhiều
người như vậy chắc hẳn là một trận đánh lớn. Khi quân Nam sang sông và tập kết
dưới bãi cát sông, họ đợi tướng quân sang chuẩn bị đánh các đồn trú của quân Bắc.
Quân của Nguyễn Hữu Tiến kéo sang chi viện, chuẩn bị cho một trận đánh lớn bất
ngờ từ quân Trịnh. Mưa mấy ngày liền, cuộc hành quân rất kham khổ.
Cả ngày trời mỏi mệt, mấy tên lính
được vợ người nhà họ Đoàn đãi tí rượu. Bỗng nhiên có lệnh phải gấp rút về doanh
trại nhanh, cảm giác như chiến trận sẽ xảy ra vào tối đêm nay vậy. Tống Hữu Đại
cho quân mình rút hết vào doanh trại, bắt đầu bàn kế mưu chống chọi vào đêm tối.
Tháng 6 năm 1657, Trịnh
Căn cho cả ba tướng Hoàng Thế Thao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam
đánh sang huyện Thanh Chương. Nguyễn Hữu Tiến cùng với Tống Hữu Đại được tiết lộ
biết trước nên phòng bị và chống trả quyết liệt. Buổi tối hôm đó, Nguyễn Hữu Tiến
cho đại bác thuộc kiểu pháo của Bồ Đào Nha khai hỏa nổ một tiếng, rồi im thinh
như là ai đó vô tình. Quân Trịnh nhao nhao sang được nửa chừng sông thắc mắc
nghe súng nổ mà không thấy ai. Trên đầu nguồn, mấy cây chuối được chặt khúc
ngang bằng bả vai người, giữa đâm nhô lên một ngọn giáo được thả trôi. Trong
đêm, tựa như những người lính đang thả nổi. Quân Trịnh dao động không biết là
quân Nguyễn trôi dập dìu, trong đêm tối bắn bừa bãi cung tên ra mặt sông như
mưa. Tên bị hao bớt, lại phí sức lực giương cung, nhất là việc đã quyết triển
khai đợt tấn công đầu, mà không hiểu phía đối phương đã biết quân Bắc sang
không.
Quân Trịnh cũng
có người sang được sông Lam, nhưng rõ ràng là đang đợi trống lệnh. Ba cánh quân
hợp lại nên họ có phần ỷ lại, không thấy quân Nguyễn nhiều nên cứ cho là một
nhóm nhỏ chống đối. Họ vẫn tiến hành xua quân sang sông. Nguyễn Hữu Tiến chia
nhỏ quân Bắc xong, liền cho người từ đầu nguồn thả trôi như những khúc chuối chặt
khi nảy. Một mặt từ trong những bụi rậm um tùm nhanh chóng kết thúc đợt tấn
công đầu. Quân tiếp viện sang sông không nhanh, bị những tên lính Nguyễn từ dưới
đâm lũng thuyền rồi thả trôi mất. Tiếng la hét vang rền, chính vì quá tối nên
quân Trịnh bị một phen kinh hãi mà không biết phải làm gì.
Đó là trận phục
kích có chuẩn bị, trong khi quân Trịnh tần ngần dao động không biết tiếp tục tiến
hay lùi. Quân Nguyễn hoàn toàn chủ động, trận phúc kích ấy gây tổn thất khá lớn
cho quân Trịnh, đành phải lùi về bờ Bắc sông Lam, giao tranh tạm nghỉ được vài
tháng.
Nguyễn Hữu Tiến không cần nói
rõ kế sách với Nguyễn Hữu Dật, tiếp viện thắng lợi liền cho quân mình lùi về
nơi đóng quân cũ. Tống Hữu Đại kể rõ ngọn nguồn, mặc dù Nguyễn Hữu Dật không
trách cứ gì nhưng vẫn ngầm buồn phiền Nguyễn Hữu Tiến không coi mình ra gì.
Tướng quân đứng nhìn những vật trôi
lều bều trên con sông chảy về hạ lưu, cảm phục mưu mẹo của Nguyễn Hữu Tiến.
Ngài suy nghĩ bao điều về đời người, về chiến trận từ trước tới giờ, về những
người con thân thương của mình còn phải chiến đấu lâu dài. Ngài suy nghĩ rằng
muốn mọi thứ chấm dứt ắt phải có một trận đánh úp quân Trịnh, trong khi đó Đàng
trong người thì ít ỏi, kinh tế chỉ mới vừa phát triển và mang danh nghĩa thờ
vua Lê nhưng không có ông vua nào bên cạnh.
Số lượng quân Nam không bằng quân Bắc
nhưng lúc nào chiến thắng cũng nhờ từ mưu mẹo. Ngài nghiệm ra rằng, đối mặt
ngoài chiến trường đánh mãi cũng là những trận đánh, phải làm sao đánh từ phía
hậu phương địch, phải có một cuộc chiến bên trong lòng từ quân Trịnh: Ngoại
công nội kích. Ngài phải có mưu lược mang tầm vóc lớn hơn, nhất là cài cắm gián
điệp ra Đàng Ngoài và đó là mưu lược được Nguyễn Hữu Dật xem như là kế sách.
Nguyễn Hữu Dật tranh thủ
ngưng chiến liền cho người lẩn ra Bắc chiêu dụ Phạm Hữu Lễ chấn thủ Sơn Tây và
Văn Dũ trấn thủ ở Hải Dương. Họ Mạc ở Cao Bằng vẫn còn mạnh, cùng với họ Vũ ở
Tuyên Quang cùng nhau nổi dậy đánh quân Trịnh.
Chúa Nguyễn rất tin
dùng Nguyễn Hữu Dật là vì đó là một người có nhiều mưu mô. Tướng công tóc bạc
trắng từ thời trai trẻ, ông trầm ngâm vuốt râu khề khà:
- Ta tranh thủ hòa hoãn này để liên kết với nhà Mạc đánh Trịnh-
Ông bàn bạc cùng với các con, rồi tiến hành vạch định kế hoạch chiêu dụ.
Vùng đất Nghệ An luôn luôn là nơi
diễn ra các cuộc chiến khốc liệt xưa nay, nơi đây là nơi tiếp giáp với đất
Chiêm Thành, rồi đến lúc nước Đại Việt mở rộng vào vùng trong, Chúa Đàng Ngoài
Đàng Trong thay phiên nhau đồn trú, binh biến làm cho cuộc sống dân đen thêm
cùng cực. Hai bên giằng co có thắng có thua và địa điểm tranh giành đều ở các
huyện ở Nghệ An, làm cho nơi đây càng thêm hoang tàn.
Nguyễn Hữu Dật rất
thương dân tình, Tướng công "mua chuộc" lòng người rất khéo léo. Cho
nên, địa phương cung cấp cho ông nguồn tân binh (được gọi là Thổ binh) gần vạn
người. Họ nhanh chóng đào tạo bài bản, các miếng võ gia truyền được chỉ dạy để
họ phòng thân và họ được đối xử không bị phân biệt Ngoài hay Trong, mà đều là
lính của Tướng Công mà thôi.
Ở huyện Quỳnh Lưu, Nguyễn
Hữu Dật thu phục được tù trưởng Lang Công Trấn vượt sông Lam, quyết đánh rát mọi
mặt để thu phục quân Trịnh. Quân Thổ binh sang sông cùng với Tù trưởng, quyết đối
đầu với quân Nguyễn từ mặt Nam, còn mặt Bắc chắc chắn Liên Minh sẽ sớm làm cho
quân Trịnh tan tành. Nguyễn Hữu Dật lợi dụng liên quân, lính Đàng Trong được dưỡng
sức chờ trận đánh dứt điểm ra Đàng
Ngoài.
Thế nhưng, người tính không bằng
trời tính.
Tháng 6 năm 1658 , Lang
Công Trấn lại bị quân Trịnh đánh bại và bị bắt giải về thăng Long. Các cánh
quân phía Bắc thì lại có ý đồ riêng, muốn cho quân Nguyễn đánh quân Trịnh yếu dần
rồi mới ra tay. Quân Nguyễn giờ đã đi quá xa lâu ngày rất mệt mỏi, lương thực
thiếu thốn, cũng dùng dằng chờ bên ngoài đánh vào. Cuối cùng, quân Trịnh có thời
gian để khôi phục lại. Tháng 7, quân Nguyễn vượt sông Lam thắng được Nguyễn Hữu
Tá ở huyện Hưng Nguyên nhưng bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút về. Tháng 12,
quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn.
Thỉnh thoảng nơi trú ngụ, Nguyễn Hữu Cảnh thấp
thoáng thấy quân Trịnh ở xa xa ngoài thành. Ở trong, Cảnh thấy súng đại bác
cũng được đậy kỹ bằng mấy tấm phên bằng tranh, nên biết là đang nghỉ ngơi. Nguyễn
Hữu Cảnh luồn qua mấy tên lính đang chơi cờ, hướng ra ngoài nhà họ Đoàn.
Phía bụi tre, có một cục đá
núi to to nằm chõng trơ một mình. Thị Thừa ngồi quấn lá dừa thành một cây kèn.
Cảnh lẻn êm ái ra sau lưng, đứng lên đó chỉ tay như tướng Trần Hưng Đạo đánh quân
Nguyên Mông:
- Ta sẽ mở rộng biên cương về Nam, rồi thống nhất sơn hà cho muội coi...
Đứng ở dưới nhìn lên, Thị Thừa vỗ tay khen ngợi. Đưa
cho Cảnh cây kèn lá dừa, để Cảnh thổi "tè tè". Tự dưng, phía ngoài đồng
trống có mấy tên lính rượt nhau. Nhìn kỹ lại quân ta đang chạy, còn quân Trịnh
đuổi theo đâm từ phía sau, Cảnh nhảy xuống kéo Thị Thừa núp ngay vào góc đá...Cả
hai chẳng dám nhìn ra, chỉ nghe tiếng hò reo của vài tên lính Trịnh.
Tuy hai bên đánh nhau, nhưng dọc đường ranh thỉnh thoảng
có vài tên trao đổi buôn bán qua lại. Mấy tên đang đâm nhau ngoài bãi trống, chẳng
qua gây gỗ vì đồng tiền dùng không giống nhau nên chúng gây sự. Nguyễn Hữu Cảnh
và Thị Thừa chạy lấp xấp vào nhà và cười, cả hai thở hỗn hển:
- Mệt quá! Mấy chú ấy đâm nhau hoài...Giống mẹ bán rượu, hỏng chịu trả tiền...
- Muội ơi! Hay muội nói với thầy của muội, theo nhà ta vào Đàng
Trong sinh sống. Theo ta nghĩ, đất Nghệ An này sẽ còn đánh nhau mãi.
Nguyễn Hữu Cảnh mới mười tuổi nhưng
linh cảm biết được quân Nguyễn sớm muộn cũng bỏ chiến trường Nghệ An lại. Đoàn
Thị Thừa bảy tuổi, nhưng lồ lộ nét đẹp quyến rũ rồi. Nguyễn Hữu Cảnh hay chơi với
con gái, nên hay ở bên Thừa thổ lộ:
- Thầy mẹ ở quê cha đất tổ thôi à...không đi. Nếu đánh hoài, lớn lên muội
trốn vào Nam kiếm ca ca.
Lời trẻ thơ hứa hẹn, thế mà Nguyễn Hữu Cảnh
nghe yên tâm. Cảnh hỏi lại:
- Chắc không? Làm sao muội trốn được...
- Muội trốn lên rừng, lên thượng nguồn. Muội vượt sông Gianh là gặp
thôi...
- Ờ! Há...muội khôn quá...
Thị Thừa hứa đơn giản có vậy, thế mà Cảnh cũng
tin. Nguyễn Hữu Cảnh lúc này bắt đầu có suy nghĩ, nhìn Thị Thừa chúm chím cười
thấy thương ơi là thương. Lén nhìn xung quanh không thấy ai, hôn Thị Thừa một
cái. Thị Thừa vén tóc qua một bên, tưởng như là cô bé lớn trước tuổi. Tự dưng hỏi
ngờ nghệch:
- Hôn muội chi vậy ca ca...
- Ờ! Thì...Ca ca thích muội. Thích lắm...
Thị Thừa nghe được thích như là khen, líu tíu
cái miệng:
- Ca ca ơi! Ca ca trong thành làm gì...Ca ca ra ngoài chơi với muội, hoài
nha...
- Ca ở trong thành học hành, khi rảnh ta mới ra ngoài được. Nếu như muội
học chữ, ca ca dạy cho...
- Con gái không học mô, ca ca dạy muội người ta cười cho...
- Mẹ của ca ca biết nhiều chữ, muội học để đọc sách hiểu nhiều. Sau này
có con muội dạy con muội...
- Vậy thì ca ca dạy muội đi! Muội học để dạy con của ca ca với muội...
Nguyễn Hữu Cảnh mắc cỡ, Thị Thừa vô tư còn
bảo là lớn lên sẽ sinh con cho Cảnh bồng, rồi còn dạy võ nghệ. Cả hai lấy lá
tre chụm lại làm bút, rồi vẽ ra đất chữ "nhân", chữ "tâm".
Bàn tay Thị Thừa rất dễ thương, khi Cảnh cầm để dạy cho Thị Thừa viết theo mình
ngắm nghía bàn tay như cố để vào tâm vào trí mình. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng phân
tích tình chiến sự xem chừng Cảnh đã hiêu hiểu phần nào. Chắc có lẻ không lâu,
quân Nguyễn không giữ được Nghệ An được nữa. Cảnh chực rơi nước mắt, biết ngày
chia tay không xa, không biết chừng nào mới gặp lại.
Cảnh cầm tay Thị Thừa, rồi mang trong túi ra một
chiếc vòng tặng cho. Mẹ Thị Thừa cũng thấy, bà tìm cô bé để bưng bê cho mấy tên
lính. Bà bán thịt chó, mấy tên lính say sưa càng lúc càng nhiều. Bọn họ chinh
chiến lâu ngày rất nhớ về nhà.
Lúc này lương thực đôi khi thiếu thốn, gây xôn
xao trong ba quân và có vài người trốn về gây phiền muộn cho Nguyễn Hữu Dật. Tháng
8 năm 1660, quân Trịnh lại đánh Nghi Xuân bị quân Nguyễn đánh bại trận. Hai bên
có thắng có thua, giằng co với nhau ở Nghệ An. Chúa Trịnh biết Hữu Lễ thông đồng
với quân Nguyễn bèn dụ và giết chết. Ngoài biên cương, Trịnh Căn cũng cầm quân
rất nghiêm, xử tử tướng Hoàng Nghĩa Chấn vì đố kỵ không tiếp ứng cho Đào Quang
Nhiêu, sau đó lại giết Nguyễn Đức Dương vì lén bán lương thực cho quân Nguyễn.
Tháng 11 năm 1960 chúa Trịnh tăng viện quân cho
Trịnh Căn. Trịnh Căn bắt đầu tiến đánh quân Nguyễn hòng chiếm lại đất cũ đã mất.
Lê Thì Hiến và Lê Sĩ Triệt đánh chiếm lại huyện Nghi Xuân. Hoàng Nghĩa Giao và
Nguyễn Năng Thiệu cũng chiếm lại huyện Thiên Lộc. Nguyễn Hữu Tiến thua trận rút
lui nhưng cố tình không báo cho cánh quân của Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật
bó buộc dùng kế nghi binh rồi tìm cách kéo sang hợp quân với Nguyễn Hữu Tiến.
Biết được, Phạm Tất Toàn có ý về Bắc.
Hai tên lính trông coi anh em
Nguyễn Hữu lúc còn nhỏ, sang đầu quân cho Nguyễn Hữu Tiến. Biết hai chủ soái
thường hay đố kỵ nhau nên thường hay nói xấu nhưng giờ trở lại với chiêu bài
hèn hạ. Tướng quân Nguyễn Hữu Dật cho bắt chém để làm gương, nhưng lúc vừa định
hạ đao thì lại ra lệnh dừng tay:
- Hai ngươi quay lại thì giết cũng chẳng để làm gì, cứ xem như hai ngươi đã chết
trên chiến trường.
Hai tên lính đào tẩu
xét ra phải chết, nhưng vì chúng đã quay lại thì nên tha thứ. Chưởng cơ Nguyễn
Hữu Dật nhìn thấy thái độ thành thật của hai kẻ đào tẩu, biết chúng ăn năn
nghĩa là mưu mô của mình thành công một nửa. Mưu kế của ngài thành bại là nhờ
cách đối xử với quân lính chí tình:
- Hai ngươi lại đây.
- Dạ thưa! Tướng công không sợ hai con làm phản...
- Hai người không đủ sức hại ta đâu, cứ lại đây.
Nguyễn Hữu Dật cho người lính hầu
lui ra, rồi kéo hai tên lính đào tẩu để xì xào mưu kế. Một lúc thì hai tên kia
đã hiểu, rồi cúi lạy mà chào chủ soái của mình.
- Đa tạ tướng công.
- Đứng lên đi! Có điều các ngươi phải lập công chuộc tội.
- Dạ tâu!
- Các ngươi có đồng ý ta không?
- Dạ thưa tướng công! Hai con coi như đã lìa đời, may nhờ tướng công tha mạng.
Hai con còn biết sợ gì nữa, mong tướng công bày cho hai con cách lập công chuộc
tội.
- Ta trông chờ ở các ngươi, mau mà thi hành mệnh lệnh.
Mưu kế của Nguyễn Hữu Dật là muốn hai tên
lính sang doanh trại quân Nguyễn Hữu Tiến, điều tra Phạm Tất Toàn vì ý muốn đầu
hàng quân Trịnh. Các tướng Nguyễn nảy sinh mâu thuẫn, Nguyễn Hữu Tiến và thuộc
tướng ghét Nguyễn Hữu Dật vì được chúa Nguyễn tin yêu hơn.
Trịnh Căn nhân cơ hội đó sai người mang vàng đến
dụ, Nguyễn Hữu Dật biết đây là kế ly gián cho nên không để mình bị mắc mưu. Phạm
Tất Toàn là người thay mặt quân Trịnh chiêu dụ, Nguyễn Hữu Dật muốn chém chết hắn
trừ hậu hoạn sau này. Mấy ngày sau, chúa Nguyễn Phúc Tần mang quân tiếp ứng,
đóng ở Quảng Bình. Nguyễn Hữu Dật liền tâu trình:
- Kính báo, Phạm Tất Toàn có ý về với quân Trịnh. Hắn ra đã mang vàng của Trịnh
Căn, còn muốn thần phản Chúa Công.
Chúa Nguyễn Phúc Tần ban cho
Nguyễn Hữu Dật thanh bảo kiếm và sai quay lại đánh tiếp:
- Ta ban cho ngươi thanh bảo kiếm, thay mặt ta mà diệt trừ hắn.
Nguyễn Hữu Dật đón nhận thanh bảo kiếm,
cúi đầu tạ ơn chúa Nguyễn Phúc Tần. Tướng quân cho quân quay lại hợp quân với
Nguyễn Hữu Tiến, tiễu trừ gian phản tắc Phạm Tất Toàn, rồi cùng giao tranh ác
liệt nhưng cuối cùng bị thiệt hại lớn. Nguyễn Hữu Tiến nghe tin chúa Nguyễn
Phúc Tần ban tặng thanh bảo kiếm cho Nguyễn Hữu Dật, và chém chết Phạm Tất Toàn
liền lấy đó càng tức giận. Nhân lúc quân mới hàng ở Nghệ An bỏ trốn nhiều, tướng
sĩ Nguyễn đều ngã lòng, Nguyễn Hữu Tiến bèn rút lui, chỉ có Nguyễn Hữu Dật xông
pha trận mạt và bị thua tan tác. Quân Trịnh dám đuổi gắt về đến Hoành Sơn, Trịnh
Căn thúc quân đuổi tới.
Việc ganh ghét của Nguyễn
Hữu Tiến còn ảnh hưởng lớn đến chiến trường sau này, việc mất lại Nghệ An được
lịch sử ghi nhận là do hai tướng bất hoà. Sự mâu thuẫn chẳng qua là vì Chúa
Nguyễn tin yêu Nguyễn Hữu Dật hơn Nguyễn Hữu Tiến.
Quân Trịnh tranh
thủ mối bất hoà đó mà tiến công đẩy lùi quân Đàng Trong về lại phía nam sông
Gianh. Một năm sau, tháng 10 năm 1661 Trịnh Tạc mang cả vua Lê Thần Tông và cử
Trịnh Căn, Hoàng Thế Thao, Đào Quang Nhiêu, Lê Thì Hiến đánh vượt sang sông
Gianh. Nhưng đánh mấy tháng mà không hạ được Nguyễn Hữu Dật trấn thủ Nam Bố
Chính. Quân Trịnh bắt đầu tỏ rõ sự mệt mỏi, nhất là quân nhu lương thực đã cạn
kiệt. Tháng 3 năm 1662 buộc lòng phải rút về Bắc, Nguyễn Hữu Dật đuổi theo đến
sông Gianh thì dừng lại.
Người Nghệ An thuỷ chung với tình yêu của
mình, cũng là điều được truyền nhân dạy bảo. Đoàn Thị Thừa lớn lên thụ hưởng
tính gan lì của người xứ Nghệ, quyết vượt sông Gianh vào Đàng Trong. Nàng mong
sống với người mình yêu dấu, cho dù nàng biết làm như vậy rất nguy hiểm và là bất
hiếu với cha mình. Nhưng sống mà không được thoả lòng yêu đương, không được gặp
mặt chàng để nói rõ tình yêu trong lòng, không biết hiện tại chàng như thế nào
thì nàng đâm ra rất đau khổ. Nàng có ý nghĩ tự vẫn, nhưng làm như vậy không ai
biết lý do vì sao nàng nguyên sinh, thà vượt núi non trùng điệp để gặp lại
nhau, rồi thế nào đi nữa vẫn hơn là tiến cung cho Chúa Đàng
Ngoài.
Hoàng hôn chìm lắng, núi non cố muốn
mặt trời mau lặn, nhìn cỏ cây khép lá nàng cũng buồn rầu. Đoàn Thị Thừa luôn
luôn nhớ lại những kỷ niệm với chàng lúc còn bé thơ, ngày đó như luôn đâu đó
bên ánh mắt nàng, như không thể nào phai. Đôi khi muốn tìm gặp được người mình
yêu thương trọn đời, chỉ muốn vượt trùng dương để gặp được Nguyễn Hữu Cảnh.
Những toan tính của mình không thể
qua mắt được người mẹ, bà nghe xót xa thương thân phận nữ nhi thường tình. Bà
biết tính nết đứa con gái, cũng là tính nết của mình thời còn bé. Phận đàn bà đặt
đâu ngồi đó, sống với người mình yêu thương sao mà khó quá, bà cảm thấy động
lòng khi thấy con mình đem lòng yêu thương Nguyễn Hữu Cảnh. Bà rất yêu thương
chồng con, nhưng chinh chiến liên miên làm cho con người gần như hám danh lợi,
mà đời những người đàn bà chỉ biết cam chịu. Những người đàn ông chỉ cần đàn bà
sinh đẻ ra con cái (nhất là con trai), rồi coi như là họ không còn gì ở đời này
nữa cả.
- Mi định trốn đi
à?
- Sao Mạ biết rứa? Con buồn quá Mạ ạ...
- Thôi được rồi! Ta giúp mi...
Hai mẹ con làm cho mình xấu xí, chiều
xuống đi tìm mấy con vịt thất lạc, rồi đi tuốt luốt vào rừng thẳm. Bà nhà đã có
kế hoạch giúp Thị Thừa trốn đi, bằng cách đi ngược lên miền núi cao.
Đến tối, gia đình họ Đoàn mới
thấy hành trang đã được chuẩn bị nhưng chưa mang theo kịp, thì họ hiểu ngay là
cả hai mẹ con trốn vào Đàng Trong. Ngay cả Tổng Trấn xứ Nghệ nghe được tin, cũng
cho ba quân đốt đuốt đi tìm. Ông ta lệnh chốt chặn những người qua lại sông
Gianh, việc khám xét hết sức là gắt gao. Hai mẹ con đi ngược lên rừng, đêm hôm
tăm tối phải nán lại ngôi chùa hoang. Họ không dám nghỉ lâu, tiếng hò reo của
quân lính như sắp bắt kịp, lại tiếp tục băng rừng lội suối đi ngược với ánh đuốt
truy tìm.
- Mạ ơi con mệt lắm rồi! Chắc con phải nộp mình cho họ...
- Tình thế này, ngươi muốn ra nộp mình. Ta cũng phải bị xử tội chết...
Hai mẹ con quá gian nan, cố thu mình
trong bụi rậm.
Bà đưa được Đoàn Thị thừa lên miền
núi, gặp lại một người dân tộc Ba-na đang cỡi voi. Hai mẹ con được đối xử rất tử
tế, họ được cho ở trong một nhà rông dài. Họ phải ăn mặc giống quần áo của họ
và khi ấy họ nổi bậc và đẹp hẳn ra. Nhất là Đoàn Thị Thừa như một cô tiên được
Yàng cho xuống trần gian, những đường viền ngũ sắc càng làm cho nàng thêm rực rỡ.
Tập tục hôn nhân của người Ba-Na rất
khắc khe, họ ít khi bỏ nhau chỉ khi người chồng gian díu bất chính với người
khác. Họ sẽ được Hội đồng già làng xem xét, bị phạt hoặc chấp thuận cho người
con trai hoặc người con gái đó được ly hôn. Thế nhưng, nét đẹp quyến rũ của
Đoàn Thị Thừa đã làm cho ngài tộc trưởng không sao cưỡng lại nổi. Ngài rắc tâm
muốn có nàng và cố tìm cách để được chung sống với nàng.
Ở trong làng nhiều người ái ngại
nàng đẹp quá sẽ làm cho tộc trưởng mê muội. Người vợ tộc trưởng biết trước sau
gì, tộc trưởng cũng sẽ lấy thêm vợ nên bàn bạc với mấy người phu voi giúp bà.
Buổi sáng được cỡi voi đi săn thú rừng với tộc trưởng, khi đi sâu vào rừng sâu.
Người phu voi muốn giúp họ trốn thoát, vì như tộc trưởng muốn mang họ vào rừng
sâu và muốn thụ hưởng nhan sắc Thị Thừa.
Khi vào dãy núi hẹp, một chú nai ngơ ngác
gây thích thú. Tộc trưởng giương nỏ nhưng chỉ trúng đùi chú nai, nên liền đuổi
theo. Thấy có thời cơ, người phu voi chở hai mẹ con ngược theo hướng khác. Tộc
trưởng quay lại không thấy họ đâu, cảm giác biết là người phu voi đã giúp họ trốn
đi nên cho người đuổi them kiếm tìm.
Hết quân lính đuổi theo, giờ đến tộc trưởng cho
mấy người Ba Na xua voi tìm kiếm. Hai mẹ con bắt đầu thấy nhan sắc đã hại hai
người như thế nào, và sự việc còn tiếp nối nhiều gian nan thế nữa. Bản năng thuỷ
chung cũng là một sự tồn tại, sự sống con người không thể nào thiếu nó. Băng rừng
lội suối để gặp người mình yêu dấu, trả giá quá đắt nhưng cả hai người một mẹ một
con đang dấn thân.
Nhờ sự giúp sức của người phu voi, họ men xuống
con sông ẩn núp. Ở đó không thấy nhà cửa nào, nhưng có một ngôi nhà hoang vắng
và họ họ tạm tá túc lại đó.
Gần hai tháng sau, vẫn chưa vượt được sông
Gianh. Việc quân lính kiểm tra quá gắt gao, làm cho hai mẹ con phải nán lại
phía thượng nguồn chờ dịp vượt sông an toàn. Họ đành nán lại một căn nhà xiêu vẹo
ở bìa rừng, chờ cơ hội mới có thể vượt sông.
Vào một đêm tối tăm, hai mẹ con băng rừng
lội suối. Vượt sông Gianh trên một cái thuyền thúng, rồi lầm lũi tiến về Thuận
An. Gần một năm sau, sự việc dần dần nguôi ngoai. Quân lính bớt đi tuần tra gắt
gao như trước đó, thì hai người mới qua sông được.
Trên đường gần đến, bà phu nhân họ
Đoàn lâm bệnh liền tá túc vào một nhà dân, được vài ngày thì bà qua đời. Gia
đình nghèo khổ ấy tiếp tục hướng dẫn Đoàn Thị Thừa tìm về nơi miền xuôi, đến
trưa thì nghe tiếng hò reo của mọi người. Họ hoà nhập vào đám đông, mới biết
Nguyễn Hữu Cảnh đang cùng ba quân cứu một đám cá voi mắc cạn.
Đó là vào một ngày gió bấc
lành lạnh, ở cửa biển xảy ra mấy con cá ông mắc cạn. Nguyễn Hữu Cảnh cùng với
đám binh lính thao dợt, rồi kéo nhau ra cửa biển tắm, với sức khoẻ hơn người
cùng với đám quân sĩ hè nhau cõng đở mấy con cá nặng chục tấn đưa về biển. Nhân
dân reo hò, trông mặt Nguyễn Hữu Cảnh hùng hổ nhưng tấm lòng bao la bác ái,
không thua gì Nguyễn Hữu Dật cha mình.
Khi lên bờ, Nguyễn Hữu Cảnh thấy trong đám
đông hò reo đó. Có một người con gái rất xinh đẹp đang say mê ngắm mình, thoáng
chốc nhận ra ngay đó là Thị Thừa. Nàng lặn lội từ Nghệ An vào, kỷ niệm tuổi thơ
đã cho nàng một tình yêu rất nặng.
Lúc này Đoàn Thị Thừa đã mười bảy tuổi, ánh mắt
sáng long lanh. Vẻ đẹp nghiêng thành đổ nước không thua gì Tây Thi. Khi Nguyễn
Hữu Cảnh bắt gặp nàng đứng trong đám đông, là đã nhận ra ngay người con gái bên
bờ kia sông Gianh, thuở nhỏ đã biết xao xuyến trước vẻ đẹp vô ngần ấy rồi, mãi
đến bây giờ vẫn còn khắc sâu trong tâm trí. Hắc Hổ chỉ thấy nao lòng vì mình
quá đen đúa, còn nàng như một bông hoa khoe sắc rực rỡ. Dũng sĩ mới đó đã mềm
lòng trước bóng dáng giai nhân.
Nhiều người thoáng chốc nhận ra Thị
Thừa, họ bắt đầu trầm trồ khen ngợi và họ nhận thấy rằng, nếu như Nguyễn Hữu Cảnh
yêu thương người con gái ấy, rằng hai người nên duyên tác hợp thì thật là xứng
đôi vừa lứa. Khi Nguyễn Hữu Cảnh tới gần nhận mặt, mọi người càng ngạc nhiên
hoá ra hai người đã quen nhau từ nhỏ. Đặc biệt nàng là người xứ Đàng Ngoài, cảm
thấy yêu đương người con trai con của một dũng tướng Đàng Trong. Nàng đã lặn lội
đi tìm tình yêu của mình, thuở ấy mấy khi con gái dám đi tìm tình yêu đích thực.
Hai người sóng đôi nhau một lúc, họ tâm sự vài
điều như thể xác nhận thêm:
- Muội chỉ một mình vượt sông Gianh sao?
- Muội và mẹ của Muội bí mật đi vào. Muội nhớ huynh, nếu huynh tin các
anh của muội. Một ngày nào đó, họ sẽ sang mà thờ Chúa Đàng Trong.
Khi đưa Đoàn Thị Thừa về
lại nhà, bà Nguyễn Thị Thiện cũng nhanh chóng nhận ra đứa con gái nhỏ nhắn họ
Đoàn năm xưa. Bà cũng nhớ lại lần kỷ niệm mà tay cán giá của Thị thừa làm mọi
người phải tất tả nhảy bừa xuống mò, tưởng hai đứa nhỏ té xuống ao. Phu
nhân nhà Nguyễn Hữu Dật dăm câu thăm hỏi sự tình, hiểu rõ nổi khốn khó nàng vừa
trãi qua nên cho gia nhân chăm sóc đứa con gái xinh đẹp ấy tận tình, và cho ở một
phòng rộng rãi cạnh Dinh tộc Nguyễn Hữu. Bà chìu chuộng như là một người con
dâu tốt sau này và cho ăn mặc lụa là như những nàng công chúa.
Phần Thị Thừa rất đỗi khấn
khít trước nghĩa cử của nhà họ Nguyễn, nàng nhang khói bàn thờ tổ tiên của dòng
họ. Nàng nhanh chóng tiếp nhận nơi ở mới và rất yêu quí bà Thiện như người mẹ
chồng sắp tới của mình.
Ở nhà bà Thiện một
khoảng thời gian ngắn, Thị Thừa được dạy thêu thùa, học chữ nghĩa và cách sống ở
nơi cung cấm. Nàng học tới đâu hiểu biết tới đó, bà Thiện lấy làm khấn khít vì
nàng đẹp lại ngoan hiền như là người mà bà tìm kiếm chờ đợi từ lâu nay.
Khoảng thời gian này anh em nhà họ Nguyễn thường luyện
tập võ nghệ, họ nhận ra Thị Thừa lúc này quả là một giai nhân tuyệt trần. Mấy
anh em có phần ganh đua nhau từng việc lớn nhỏ, mong cho Thị Thừa nhận thấy sự
nổi trội của mình: Người thì làm thơ phú, người thì lao vào học chữ của truyền
nhân, rồi thi thố võ nghệ ngoài sân nhà sống mái không ai chịu thua ai. Đôi khi
cùng ra xa trường với Nguyễn Hữu Dật để gìn giữ biên cương, mấy anh em cố lấy
lòng cha đang trấn thủ ở thành Trấn Ninh. Lúc này, Nguyễn Hữu Cảnh chỉ mới hai
mươi tuổi, còn được mọi người gọi tôn là “Hắc hổ”. Nguyễn Hữu Cảnh càng lúc nổi
trội hơn hẳn mọi người, tiếng tăm của chàng đã làm cho quân Trịnh khiếp
vía.
Năm đó là 1672. Ở bên bờ kia Sông
Gianh, Chúa Trịnh Tạc ở Đàng Ngoài được biết mình vuột mất một mỹ nữ, bắt đầu
cho dấy binh quấy rối thành Trấn Ninh. Đích thân Trịnh Tạc cùng với Trịnh Căn
ra chiến trường, lần này quân Trịnh đánh suýt hạ được thành. Đó là thành luỹ được
Đào Duy Từ thiết kế và nay nó vẫn đứng sừng sừng nhờ sự trông coi của cha con
Nguyễn Hữu Dật. May nhờ cha con ra sức chống đở canh giữ mấy tháng ròng rã, rồi
cho Nguyễn Hữu Cảnh phá vòng vây để về xin tăng thêm viện binh. Đây là lần thứ
bảy trong 46 năm phân tranh, đánh nhau nhiều trận lớn nhỏ nhưng không phân thắng
bại.
Nguyễn Hữu Cảnh cùng với một tốp lính tình
nguyện theo mình, xông pha lao ra cửa. Tình huống bất ngờ nên quân Trịnh không
phòng bị, chàng lao ngựa thẳng vào đội hình giặc, chém chết mấy tên cản đường rồi
phi ngựa lao đi vun vút vào rừng thông. Nhìn người đen đúa biết là Hắc hổ nên
quân Trịnh chạy dạt sang bên chừa cho lối đi ra, rồi mới cho tên bắn theo. Nguyễn
Hữu Cảnh phi ngựa vào rừng thông được một lúc, ngựa chàng bị tên cắm phập vào
mông. Chàng cố nài cương bắt chú ngựa phi thêm một đoạn đường dài, biết nó
không thể nào đi thêm nữa được. Chàng buộc lòng đến bên bờ vực, giết chết chú
ngựa mà mình thương yêu nhất và đẩy nó xuống vực hòng giấu xác để quân Trịnh
không tìm được manh mối.
Đám quân lính đốt đuốt tìm kiếm
Nguyễn Hữu cảnh, có lúc gần sát bên chàng nhưng Hắc Hổ nín lặng. Đợi khi đuốt
tàn, chàng tách đám quân ô hợp hướng ra con đường cái và phải đánh nhau với một
tốp nhỏ đang chốt chặn, rồi lấy được một con ngựa già phóng đi. Trịnh Căn hối
thúc quân mình đuổi theo, nhưng chỉ bắt được mấy tên lính phía sau mà không tìm
được Nguyễn Hữu Cảnh nên tức tối vô cùng.
- Các người phải tìm được tên Hắc hổ đó cho ta, nếu không thì phải triệt
phá thành Trấn Ninh bằng mọi giá.
Biết nay mai, quân Nguyễn sẽ
mang viện binh ra chống cự nên hối thúc quân mình ra sức phá vỡ được một mảng
tường thành. Nguyễn Hữu Dật rất gian nan chống đở, cho người văng gạnh đá vào
chỗ thủng ấy giết rất nhiều lính của Trịnh. Đến gần sáng cũng đẩy lui được quân
Trịnh ra xa khỏi tường thành, rồi lén cho người mang vữa ra ngoài vá bít lỗ thủng
ấy.
Quân lương bắt đầu cạn, Nguyễn Hữu Dật
chỉ biết trông cậy vào con trai mình về xin viện binh đến sớm để giải cứu. Nguyễn
Hữu Cảnh bị một vết thương nhẹ trên vai. Trên đường đi, chàng bị các nhánh cây
cứ va vào chỗ đau ấy, đôi khi muốn ngất xỉu, chàng phải gắng sức lắm vì vết
thương đang nhiễm trùng. Chàng nghe nóng sốt, mắt mình mờ mịt nhưng quyết không
nghỉ ngơi, cố gắng mang viện binh giải cứu cha mình. Chú ngựa già của quân Trịnh
cũng đã kiệt sức, buộc lòng phải bỏ lại. Chàng chạy bộ không được bao lâu thì
chống gươm quị xuống, nước mắt chàng trào ra vì cha chàng và ba quân ở thành
lũy Trấn Ninh đang trông cậy vào chàng.
Nguyễn Hữu Cảnh đang quì gối trước
thanh kiếm, cúi người gấp lại để cảm nhận sức lực còn lại. Chàng còn cảm thấy
buồn vì chưa làm tròn nhiệm vụ và e ngại mình sẽ không còn gặp Thị Thừa được nữa.
Những hình ảnh mơ tưởng về tương lai của chàng và nàng hiển hiện, người con gái
ấy như thôi thúc chàng phải gượng dậy và lạ thay chàng càng nghĩ về nàng thì
nghe như thêm được phần nào sinh lực. Chàng thở hổn hển tìm lại chút sức sống,
những lời thì thào văng vẵng của Thị thừa như bên tai. Đó là những lời động
viên, như càng lúc càng thôi thúc hơn. Nguyễn Hữu Cảnh nhìn quanh, xung quanh vắng
hoe không một bóng người. Chàng nhận ra những lời lẻ kia chẳng qua là do chàng
tưởng tượng, có lẽ đầu óc đã không còn tỉnh táo. Bỗng chàng nhoẻn cười giữa đêm
khuya phắt, rồi chàng gấp người thấp khóc lóc và một lúc như vậy để ngủ.
Đến khi trời sáng tỏ, Nguyễn Hữu Cảnh
nghe tiếng nói bên tai của ai đó. Chàng ngỡ như Thị Thừa đở chàng dậy nhưng đó
là một người tiều phu đi tìm củi sớm mai, cho chàng uống nước và nâng chàng dậy.
- Đạ tạ ông lão!- Chàng cám ơn người giúp mình, rồi lấy thanh kiếm cầm chắc
trên tay.
- Ngươi có phải là Hắc hổ, con trai tướng quân Nguyễn Hữu Dật?
- Ông biết ta sao?
- Chỉ thấy dung mạo, nhưng đã biết ngay đó là ngươi rồi. Ngươi quả là
"nhà nòi" của Tướng quân Nguyễn Hữu Dật, quả là cha nào con nấy.
Ông lão nói đến đó, liếc thấy vết
thương trên vai chàng. Ông lấy nước rữa máu tụ bầm làm vết thương sưng tấy, rồi
đến bên đường tìm mấy đọt non cây dâm bụt. Ông có mang theo bình rượu riêng,
hòa lẫn hai thứ vào nhau rồi áp vào vết thương thật mạnh. Nguyễn Hữu Cảnh cố gắng
chịu đau, một lúc thì chàng nghe khỏe khoắn hơn, nên dạm hỏi đường về thuận
Hóa.
- Ta biết ngươi phá vòng vây về Thuận Hóa xin viện binh, nhưng đường còn
xa mà ngươi không còn phương tiện nào. Chi bằng ta còn một con trâu đang thả,
cho ngươi đi thẳng ra hướng biển. Ở đó có người nhà của ta, mượn thuyền mà đi
vào cho thuận gió...
- Đa tạ, thật đa tạ. Xin ông lão cho biết tên tuổi để mong sau hậu tạ.
- Ta không phải là người nào xa lạ, lúc nhỏ từng trông coi ngươi đó.
Nhưng giờ ta đã già cả, trả ơn ta cũng chẳng thể làm gì.
Lúc này, Nguyễn Hữu Cảnh nhớ mài mại ra
hai người lính năm xưa từng được cắt cử theo trông coi mình. Ông cũng từng bị
phạt vạ vì không làm tốt việc trông giữ ấy và cũng suýt bị cha chàng chặt đầu
vì theo Nguyễn Hữu Tiến. Thế nhưng thời gian cấp bách, không thể nào nhắc lại
chuyện phải trái trước đây nên Nguyễn Hữu Cảnh đành phải cúi đầu tạ từ. Chàng
leo lên lưng trâu hối thúc nó băng ra hướng biển và tìm thấy mấy căn nhà của
các ngư dân nghèo. Vài con thuyền nhẹ chuẩn bị ra khơi, thế là chàng được cho
theo họ.
Những chiếc thuyền Bầu được đan bằng mây tre nhẹ
tênh. Gió thổi theo hướng Nam, con thuyền cứ thế băng băng về kinh thành. Chàng
còn được nghỉ ngơi, ngồi ngắm ra khơi mà mơ tưởng về người con gái đẹp. Mấy chú
cá heo ở đâu đó đua theo, tựa như ngày trước chàng từng cứu nó, giờ trở về
tiếp giúp mình đi cho nhanh hơn.
Đến quá giờ Ngọ, cửa biển Thuận An
thấy trong tầm mắt. Nguyễn Hữu Cảnh mong ngóng gió đưa nhanh hơn nữa để kịp
trình báo Chúa thượng cứu rỗi thành trì. Chàng phải chờ một khắc giờ nữa, mới tới
được Phá Tam giang. Nguyễn Hữu Cảnh trương cờ lệnh, đám lính đồn trú quanh cửa
biển Thuận an cho những chiến thuyền vững chắc hơn ra đón. Chàng vẫn chọn con
đường đi theo sông Hương về vùng đồi Thiên Mụ, làng Kim Long nơi chúa Nguyễn
Phúc Tần chọn đóng đô.
Trên bả vai giờ đây càng rịn máu hồng, chàng
không ngại đau đớn mà chạy nhanh vào trong cung chúa. Gặp được ngài Chưởng Dinh
nguyễn Phúc Kiều nhưng ông ấy vẫn như người mắc tóc, luộm thuộm hỏi han làm mất
thì giờ. Chúa Nguyễn Phúc Tần hay được tin, cho mời Nguyễn Hữu Cảnh mau vào chầu.
Nguyễn Hữu Cảnh cúi lạy mấy lạy, rồi chàng dâng thư
cha mình xin viện binh. Chúa Nguyễn Phúc tần đọc thư, rưng rưng nước mắt:
- Thời gian chống cự đã gần tháng trời mới xin viện binh, rõ là Nguyễn Hữu
Dật thấy quá sức mình mới biên thư. Chưởng dinh hãy sắp xếp cho Cai cơ được dưỡng
thương, lần này ta sẽ đích thân mang viện ra chiến trường, quyết sống mái với
quân Trịnh Căn.
Nguyễn Phúc Kiều nghe chúa nói thế nên vội vã can
ngăn:
- Thưa chúa thượng, bề tôi nghĩ là để Cai cơ nghỉ ngơi vài ngày lại sức,
rồi mang quân ra biên thùy, cớ sao phải hành động thay...Nếu như có bề gì thật
là...khó.
- Chưởng Dinh chớ quá lo, cố gắng sắp xếp việc triều chính vài ngày, ta
giao toàn quyền cho ngươi thay ta. Ta không nở nào ngồi kinh thành hưởng phúc lạc,
để các danh tướng mình cơ cực ngoài biên cương.
Vì biết cha chàng quá gian nan ngoài biên
thùy, lại thêm tên trúng vào vai chàng, nên Chúa muốn thân chinh ra biên ải. Thực
là một vị chúa hiền vương, Nguyễn Hữu Cảnh rất đỗi cảm kích.
Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Kiều
đã có tuổi và rất hay hiềm khích với những người tuổi còn trẻ nhưng tài đức
toàn vẹn, liếc nhìn Nguyễn Hữu Cảnh tựa như đó là nguyên nhân làm chúa phải
thân chinh đánh giặc. Nguyễn Hữu Cảnh cũng không thoát khỏi sự ganh tỵ, chàng
đang bị thương nhưng ông ta cứ nghĩ là chàng giả vờ.
- Sao ngươi không nói gì, chúa thượng biết lẽ phải thay ngươi mang viện
binh đi. Còn ngươi thì mong chờ được dưởng sức, có phải là bề tôi tận tụy vì
chúa nữa không?
Nguyễn Hữu Cảnh cúi gập đầu xuống
như chối tội ấy, thực sự cha chàng giờ này không biết còn đủ sức giữ vững thành
Trấn Ninh nữa hay không. Chàng cũng rất muốn làm tiên phong mang viện binh cứu
cha, nhưng chúa đã ban lệnh thì không dám hó hé.
- Thôi chớ tranh cãi- Chúa Nguyễn Phúc Tần nhắc lại- Hãy ban lệnh ta ra
ba quân để còn kịp ngày mai lên đường. Ta cho phép ngươi ở lại đây vài ngày,
khi xong việc ta sẽ ghé qua Nam Bố Chính thăm hỏi.
Nguyễn Hữu Cảnh lạy tạ, lòng rất cảm kích
sự quan tâm của Chúa thượng, như là những lời động viên rất lớn làm chàng thêm
lây lất. Chàng quyết đem hết sức lực phụng sự Chúa, một lòng tôn thờ nhà Nguyễn
mãi mãi. Chàng cúi lạy rồi lui ra, vết thương làm chàng chao đảo. Chàng được sắp
xếp cho ở tạm nhà của Chưởng Dinh, đợi khi hồi phục mới trở ra Nam Bố Chính.
Năm 1643, lúc Chúa Nguyễn Phúc Tần còn
thời trai trẻ đã có những chiến công hiển hách, vây đánh ba chiến thuyền Hà Lan
được Đàng Ngoài hậu thuẫn- Lúc ấy là con thứ của chúa Nguyễn Phúc Lan, được
phong làm Thái phó Dũng lễ hầu- Không đợi lệnh và gan dạ xông pha và phá tan
tàu chiến của người Hà Lan. Chúa Nguyễn Phúc Lan khen ngợi: "Tiên quân ta
từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa",
rồi phong cho Nguyễn Phúc Tần làm người kế vị thay cho con trai trưởng. Đến nay
chúa cũng ít nhiều vài lần thân chinh ra chiến trường và lần này tự chúa Nguyễn
ra tiếp ứng kịp lúc.
Quân Trịnh mệt mõi vì không phá nổi thành
lũy, giờ lại thấy viện binh tới nên hết sức chán nản. Trịnh Căn phải rút về Bắc
Bố Chính và vài sau cho người sang gặp chúa Nguyễn Phúc Tần thương thuyết điều
kiện đình chiến.
- Lần này không phải là tư thù truyền kiếp, mà vì ta đã có một mỹ nữ vốn
sắp tiến cung. Nhưng người con gái đó đã trốn sang nhà tên Nguyễn Hữu Dật, nếu
chịu đem nộp nàng thì Chúa công ta sẽ cho lệnh lui binh.
Chúa Nguyễn Phúc Tần nghi ngại kế ly gián, hòng
muốn chia rẽ Nguyễn Hữu Dật với chúa, nên tỏ vẻ không ưng thuận.
- Nếu cho là vì bên ta chiếm mất người con gái đẹp nào đó, ắt dâng nàng
cũng sẽ có cớ khác mà thôi. Chiến tranh là đều do bên Trịnh thân chinh trước,
ta ở đây phòng thủ. Nếu như thật lòng muốn ngưng chiến sao còn ra điều khoản.
- Thưa chúa Nguyễn, quả tình là lần này là vì một giai nhân tuyệt sắc.
- Chiến tranh liên miên làm đôi bên kiệt quệ, nhiều thế lực bên ngoài đợi
cả hai sụp đổ để hòng chiếm đất cát cứ. Chẳng như phía ngoài nhà Mạc vẫn luôn
chờ thời cơ đó sao, còn trong Nam ta quân Chiêm thành vẫn thường hay quấy nhiễu.
Chi bằng, hai bên đều thật lòng muốn ngưng chiến, thì hãy ký kết không điều kiện.
Sứ giả trở về trình bày với Chúa Trịnh
Tạc như vậy, còn Trịnh Căn suy nghĩ hơn thiệt thì đồng ý.
- Tư thù giữa hai bên gát lại, ta thấy bên Đàng Trong hiểu rõ nội tình
phía ngoài này. Thôi ta hãy chấp nhận đình chiến, việc đòi mỹ nữ cũng chẳng cần
chi. Dù sao thì đó cũng chỉ là cái cớ, vả lại chẳng biết nàng ta hiện giờ đang ở
đâu.
Chúa Trịnh Tạc đõng đảnh:
- Vậy là, người đẹp của ta bỏ lại trong đất Nam sao?
Trịnh Căn khoát tay, chẳng màng gì đến lời
của Chúa công mình. Ông ta bao lâu nay tiếm quyền, thành ra chúa chỉ là bù
nhìn.
Trịnh Căn soạn thảo các điều ước đình chiến,
rồi cho sứ thần sang gặp Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đọc thấy những điều khoản không
có gì vướng mắc, chúa Nguyễn đồng ý ký kết để muôn dân được thái bình. Sông
Gianh là nơi chia cắt ranh giới thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, sự chia cắt ấy
là khoảng thời gian yên ổn để quân Đàng Ngoài tiêu diệt nhà Mạc. Đàng Trong mở
mang bờ cõi về phương Nam.
Từ thời Lý, nước Đại Việt đã xảy ra chiến tranh với
Chiêm Thành và chiếm được vùng đất Bố Chính. Trước là châu nước Chiêm Thành, Chế
Củ bị Lý Thường Kiệt bắt sau một tháng truy đuổi. Vua Chiêm chấp nhận dâng Bố
Chính sát nhập vào nước Đại Việt. Đến Thời Lê nước Việt mở rộng đến Phú Yên. Bố
Chính được chia làm hai châu, Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, sông Gianh là ranh
giới của hai châu này (Ngày nay thuộc đất Quảng Bình gồm: Quảng Trạch, Tuyên
Hóa, Bố Trạch, Ninh Hóa).
Sau khi ký kết đình chiến với Đàng Ngoài,
mặt trận Nam Bố Chính tạm ổn. Chúa Nguyễn Phúc Tần kéo quân về và thắc mắc hỏi
Nguyễn Hữu dật:
- Ta nghe nói ở nhà phu nhân ngươi đang giấu một mỹ nữ, có phải chăng?
- Tâu chúa Thượng!- Nguyễn Hữu Dật cúi đầu- Trước đây lúc tiến chiếm Nghệ
An, có biết một nhà họ Đoàn duy nhất có một đứa con gái. Khi lớn rất xinh đẹp
và trốn sang Nam, phu nhân thần cho trú ngụ và dạy dỗ...
- Ta kéo quân về ngang cơ ngơi tư dinh nhà ngươi, muốn ghé thăm lại cho
biết.
Nói xong, chúa Nguyễn Phúc Tần quày
quả ngựa đi trước. Nguyễn Hữu Dật lật đật phi theo sau, không kịp cho gia nhân
kịp cấp báo cho bà Thiện để chuẩn bị đón tiếp.
Phần bà Thiện nghe tin đình chiến, rất đỗi
vui mừng . Hôm Nguyễn Hữu Cảnh vượt vòng quây về xin viện binh, bà nghe ngóng
tin tức đứa con trai mình từng chút một. Mấy ngày nay ngóng chờ chồng con về,
bà có phần nào lo trước nhà cửa đâu đó tươm tất. Nhất là Đoàn Thị Thừa được
trang điểm đẹp hơn, căn dặn những lời hơn lẽ thiệt để khi cần ăn nói, đối đáp
ra nhà con dâu hiền ngoan. Bà thấy đoàn quân cờ xí rợp trời đang tiến thẳng tư
dinh nhà Nguyễn Hữu, bà nghĩ chắc phải là tướng quân Nguyễn Hữu Dật rồi.
Một vài gia nhân chạy nhanh vào cấp báo,
cho biết là có cả Chúa thượng Nguyễn Phúc Tần ghé thăm nhà. Bà Thiện hết sức là
hân hoan, mấy ai là đấng tối cao lại đi ghé nhà tướng sĩ, âu cũng là phước
lành.
Khi đoàn tùy giá của ngấp nghé trước
cổng nhà, Phu nhân cho gia đinh lớn nhỏ đều đứng hai hàng nghinh tiếp. Đoàn Thị
thừa đứng cạnh bà, đẹp lộng lẫy không ai so bì hơn kịp. Nàng rất vui mừng vì
tin đình chiến, vì sớm muộn sẽ gặp lại Nguyễn Hữu Cảnh và nhất là dịp để tái hợp
hai người chung sống với nhau trăm năm. Đây còn là dịp gặp mặt Chúa Thượng, cho
nên nàng rất đỗi có qui cũ. mọi thứ nàng học được, nàng đều khéo léo cân nhắc
sao cho nhuần nhuyễn.
Khi Chúa Nguyễn Phúc Tần bước vào hoa viên
nhà Nguyễn Hữu, chúa bước đi thoăn thoắt vào trong như nhà mình. Đến trước ngay
bà Thiện đợi chúc tụng, Chúa liếc mắt sang Đoàn Thị Thừa cũng đang quì mọp sát
đất. Toàn bộ gia đinh đều cúi mộp, không ai dám nhìn lên lấy một cái. Chúa Nguyễn
Phúc Tần đứng như trời trồng một lúc, khi bắt gặp Đoàn Thị thừa quá đỗi xinh đẹp,
chưa từng gặp ai có sắc vóc hương trời lộng lẫy như nàng. Chúa quá xao xuyến
trong lòng, không tịnh tâm được nên quên mất việc cho mọi người bình thân.
- Các ngươi đứng dậy!- Cuối cùng, chúa cũng phải ban lệnh. Nhưng cố chờ
Thị Thừa đứng lên để xem xét toàn diện. Vẻ bẽn lẻn của nàng, rồi ngơ ngác lén
nhìn về phía chúa thượng. Thay vì bắt tội khi quân, nhưng nàng được chúa nhìn
như thôi miên không một cái chớp mắt.
Chúa Nguyễn Phúc Tần là người quyền
uy vô hạn, đấng quân vương nào cũng sở hữu những người con gái đẹp tuyệt trần.
Thế nhưng, Chúa cũng muốn mình là một vị minh quân, không thể nào để một người
con gái xinh đẹp làm mình quên hết cả lễ nghi. Chúa có một chút dao động, rồi
vào trong ngồi ghế đã được đặt ở giữa.
- Đất Nam Bố Chính này khô cằn, cát với biển. Khá khen cho phu nhân ngươi
giữ gìn nơi đây xanh tốt.
Nguyễn Hữu Dật đứng cạnh, nghe khen
ngợi phu nhân mình rất mừng vui. Ông cúi đầu đa tạ, trình bày từng chuyện cho
chúa khỏi thắc mắc:
- Vùng đất này mưa ít, nắng và gió nhiều. Mỗi khi có mưa thì bỗng chốc biến
thành bão táp. Từ khi trấn giữ nơi đây, thần rất hiểu nổi cơ cực của trăm họ,
giờ như là lúc để họ yên vui làm ăn, mong sao nhờ phước đức của chúa thượng. Trời
cho mưa thuận gió hòa, chẳng mấy chốc dân tình sẽ khá giả. Ơn đức của bệ hạ, thần
dân không thể nào quên...
- Ngươi mới gọi ta là Bệ hạ đó ư?
Nguyễn Hữu Dật vội vàng quì mộp, vì như cố tình
nhưng cũng khéo léo xin tội. Chúa Nguyễn Phúc Tần vẻ thích thú, nhưng phải
phép:
- Ta đây vẫn tôn thờ vua Lê...Nhưng mấy khi ngươi là công thần ta chẳng
khắt khe bắt tội...
Biết là chúa "khiêm nhường" để mua chuộc
bá tánh, nhưng làm vua thì ai không mong mỏi. Nguyễn Hữu Dật tuy dập đầu chịu tội,
nhưng tướng công cũng biết cách lấy lòng chúa. Ông còn mấy đứa con chưa có chức
tước nào rõ ràng, nên rất muốn chúa thượng phong cho mỗi đứa một nơi.
Đám gia dinh nhà Nguyễn Hữu
nháo nhào ở dưới nhà làm tiệc tùng, khi xong đâu đó rồi thì bày biện lên căn
chính diện để thiết đãi chúa. Thoạt đầu, mấy tên lính theo hầu hạ cầm quạt hai
bên. Một lúc sau, chúa viết vội mấy chữ đưa cho tướng công Nguyễn hữu Dật ngồi
bàn dưới, được chúa ban thưởng ly rượu.
Nguyễn Hữu Dật đọc loáng qua, rồi
đưa ly rượu lên chúc tụng. Sau khi uống xong, ông cho người thân cận xuống nhà
nói cho bà Thiện nghe ý chúa thượng của mình. Đoàn Thị Thừa được thay xiêm y rất
là mượt mà, nhanh chóng đến bên rót rượu, rồi phe phẩy chiếc quạt mà không dám
mơ tưởng nào. Nàng không ngờ, lần này mình có dịp đứng sát bên quân vương đến
như vậy. Những gì mình đã được bà Thiện dạy bảo, nàng cố gắng không để cho bà
phu nhân phật lòng. Nàng thuần thạo từng cách mời rượu, từng sự uyển chuyển là
cố tạo sự thoải mái cho những người ở xa trường về nghỉ ngơi. Nàng cũng muốn
mình làm vậy, là để sau này khi đã là người của Nguyễn Hữu Cảnh rồi. Nàng sẽ tự
tin mà phục vụ cho chồng...
Chúa Nguyễn Phúc Tần và tướng công Nguyễn Hữu Dật
cùng nhau chén thù chén tạt. Chung qui là họ cũng mừng vui đất nước tạm
thời yên ổn, việc chinh chiến sát phạt đã làm cho họ cũng mệt mỏi. Mấy khi mới
có dịp cùng nhau ngồi ôn lại những chiến tích mình trong những trận ngoài xa
trường. Mấy khi chúa công lại hoan hĩ những thành tích mình có, vì dù sao mình
cũng là vua chúa rồi còn ai hơn. Từ khi Thị Thừa đứng hầu hạ cạnh bên, chúa
Nguyễn Phúc Tần có những lời lẽ phóng đại những trận đánh mà mình tham dự và diễn
tả những trận đánh bị vỡ vụn như là trong tay mình toàn là đất mềm và cát vụn.
Còn Thị Thừa chẳng mấy khi hiểu được, nàng chỉ mong ngóng có một chuyện bình
thường. Đó là sớm lấy được người mình yêu.
- Tất cả các ngươi hãy uống cùng ta...- Chúa Nguyễn Phúc Tần ban lệnh, rồi
đưa chén rượu lên cao. Chúa uống hơn bình thường và liếc mắt ngắm nghía Thị thừa.
Mấy tên quan cấp thấp, thuộc hạ
trung thành cũng được ban thưởng vài ly. Chúa uống vào ly đó liền gục tại chỗ,
mấy khi được dịp thái bình nên một lần say khước cho đã. Đoàn Thị Thừa luýnh
huýnh quạt lia quạt lịa, không biết có nên đụng chạm vào long thể- Điều này thì
nàng chưa nghe bà Thiện nói đến. Đám tùy tùng cũng quen với việc chúa hay ngã
rượu sớm, thà vậy còn hơn uống mãi. Mặc dù biết chúa Nguyễn Phúc Tần là minh
quân nhưng khi con người ta say khước thì ai biết chuyện gì xảy ra. Người ta
nói: "Gần vua như gần cọp", bổng chúa bắt ai đó "tự xử".
Ngày mai mới tỉnh lại thì mình tiêu đời rồi...Đám tùy tùng cùng nhau khiêng
chúa đến nằm trên bộ ván gỗ mun, một vài người lấy khăn lau mặt cho bớt mồ hôi
mồ kê, còn mang cả cái chậu để sẵn phòng khi chúa nôn mửa.
Hồn vía lên mây xanh, Thị
Thừa lần đầu tiên thấy được mặt Chúa Nguyễn Phúc Tần, nhưng cũng là lần đầu
tiên nàng thấy người say rượu quá cở. Nàng được bà Thiện cho ra ngoài thong
dong, dạo bước ngoài đồi cát trong về biển. Nàng rất đến Nguyễn Hữu Cảnh, mong
sao ngày mai nàng được gặp mặt chàng.
Ven biển có những viền cát,
gió bụi tung tóe và như xa xa có ai đó đang phi ngựa. Nổi mong chờ của Thị Thừa
như có sự mách bảo từ linh cảm, người phi ngựa càng lúc càng hiện rõ ra. Hắc Hổ
lấy dây quất quỳnh quỵch vào chú ngựa mình mới được triều đình cấp cho. Chàng
nghe tin đình chiến rất đỗi vui mừng, mấy ngàyàng đã đở đau. Chàng xin về Nam Bố
Chính để thăm mẹ và nhất là người con gái yêu kiều mà mình yêu dấu.
Gần đến nhà, chàng biết có con đường
men theo biển ít vướng cây cối. Ngựa sẽ phi nước đại dồn dập, cùng với tiếng
sóng biển mà chàng đã nghe quen từ hồi nhỏ. Chàng cũng mong ngóng một phép thuật,
mong sao có người con gái đẹp ra đón chàng. Như vậy mới thỏa lòng mong nhớ,
chàng thấy được Thị Thừa đang đứng chờ chàng từ đồi cát và chàng nghe khấn khít
vô cùng.
Gió thổi xiêm y của Thị Thừa
phần phật, lồ lộ da thịt chắc nịch. Đến nơi, chàng xuống ngựa ngắm nghía nàng
như thêu như đốt trong lòng. Nguyễn Hữu Cảnh không giấu được tình cảm của mình,
mong gặp nàng để thỏa lòng mong nhớ, sớm tối có nhau. Chàng bỏ ngựa lại, cầm lấy
tay nàng hỏi han:
- Nàng nhớ ta nhiều không
- Muội rất nhớ ca ca...
Từng con
sóng vỗ về vào bờ, tưởng như đôi trai tài gái sắc sẽ yêu thương hạnh phúc với
nhau muôn đời. Khi nàng nghiên đầu vào vai chàng, thì tự dưng chàng nghe mọi thứ
tan chảy trong lòng, nghe như bị thiêu cháy hết cả tim can. Giai nhân đã hớp hồn
quân tử, chỉ trừ việc ôm nhau thật chặt thì chàng chưa dám làm mà
thôi.
- Ca ca xem kìa sóng cứ vỗ vào bờ mãi...
- Sóng vỗ muôn đời nay, như tình yêu con người mãi mãi vậy...
- Ca ca nói hay quá, thế ra ca ca có yêu muội không?
Nguyễn Hữu Cảnh muốn thốt lên trời cao một lời
thật to là yêu nàng nhất trần gian. Người quân tử không muốn để lộ lòng dạ hướng
về sắc giới, nhưng bóng dáng giai nhân hiển hiện quanh quẩn trong lòng không
nguôi. Nguyễn Hữu Cảnh thực lòng không thể nào quên được, muốn thú nhận và nói
với mẹ mình chấp nhận người con gái ấy sống đời đời kiếp kiếp với mình. Thế
nhưng, Hắc hổ cũng là một đấng anh hùng, được sử sách dạy bảo chớ mà lụy giai
nhân, nên chàng có phần nào sượng sùng:
- Theo muội thấy ca ca có yêu muội không?
- Ca ca hỏi kỳ quá! Muội chỉ muốn hỏi ca ca và ca ca trả lời cho muội
nghe à?
"Nghe à!", lời nhỏ nhẹ như xé nát tim
người, Nguyễn Hữu Cảnh ghi nhận vào tim can tiếng nói nhỏ nhẹ ấy. Hai người chạy
nhãy đùa vui trên con con sóng, không hay ở trên đồi cát chúa Nguyễn Phúc Tần
giờ đã tỉnh rượu, đứng trông họ đùa vui. Ba quân tướng sĩ cũng cầm cờ xí giăng
hàng ngang, gió thổi cát trắng bay túa lee6n một vùng.
Mãi vui nên khi nhìn lên, Nguyễn Hữu
Cảnh nhận ra chúa Nguyễn Phúc Tần đang đứng trên đồi cao. Chàng kinh hãi chạy
nhanh lên đó, rồi cúi mộp làm lễ yết kiến.
- Thần muôn tội, về đến nhà không vào chầu chúa ngay là phải vui đùa với
mỹ nữ. Thần xin muôn lần chết...
- Ngươi hãy đứng lên đi. Vết thương trên vai ngươi đã lành lặn chưa?
- Kính chúa! Thần đã hồi phục. Nay nghe tin thái bình, thần muốn về nhà
thăm mẹ hiền.
- Vậy ra ngươi ở Thuận hóa mới ra đó sao, phải chi ngươi đến sớm hơn một
chút là cùng ta yến tiệc.
- Đạ tạ chúa thượng. Bởi vì lang y khuyên răng không tửu không sắc giới,
thần cố không cãi lời được ạ!
- Tốt! Nay ta phải nhanh về Thành nội. Ta đã căn dặn cha ngươi mau
chóng sớm mai vào chầu để ta phong chức tước, các ngươi nhớ mà y lời ta dặn.
Chúa Nguyễn Phúc Tần nói xong,
hướng nhìn xuống biển thấy Thị Thừa vẫn quì gối trên đụn cát. Chúa muốn xuống
đó đem nàng lên ngay, nhưng ái ngại nhiều người xem thường. Ra chìu không mấy
quan tâm, kéo đoàn tùy tùng nhanh về cung.
Sau khi chúa Nguyễn Phúc Tần đi rồi, đôi trái gái
cùng nhau về tư dinh nhà mình. Bà Nguyễn Thị Thiện nghe tin Hắc hổ bị thương, rất
mong chờ chàng về. Ra cửa đứng, bà thấy hai người chúi người trên dãi cát để
nhanh chóng đến nơi.
Bấy lâu nay, bà mong ngóng cả hai được
gần gủi bên nhau. Thế nhưng từ lúc chúa thượng nhìn thấy nhan sắc Thị Thừa. Tuy
không có lời dạm hỏi, phu nhân của tướng Nguyễn Hữu Dật cảm thấy lo lo. Đoàn Thị
Thừa là một giai nhân đẹp tuyệt trần, nếu không đem nàng tiến cung dâng Chúa ắt
sẽ mang tội khi quân, hoặc gia đình Nguyễn Hữu đây sẽ có chuyện không lành.
Khi Nguyễn Hữu Cảnh đến cửa chào bà, đợi
khi Đoàn Thị thừa lui về phòng. Bà có mấy lời khuyên giải Nguyễn Hữu Cảnh:
- Con của ta, cái vai con còn đau không?
- Dạ, thưa mẫu thân! Vết thương đã liền da...
- Con hãy bình tâm nghe ta nói, hãy giữ thái độ ôn tồn.
Bà Thiện cầm chiếc khăn mặt phe phẩy trước mặt,
tay hết chấp ra sau lưng bà phân bua về Đoàn Thị thừa. Bà Nguyễn Thị Thiện kể lại
chuyện Chúa thượng ghé qua, chẳng phải công trạng của nhà Nguyễn Hữu không
thôi. Đôi khi, chúa thượng đã nghe tiếng đồn về người con gái đẹp ấy, sẳn dịp
trên đường về ghé nhà xem qua. Bà nói rằng nàng chỉ xứng với vua chúa và vì những
người con gái có sắc vóc hơn người thường chỉ đem đến những mối hoạ, chưa chi
trong anh em của Nguyễn Hữu Cảnh đã bắt đầu xảy ra những chuyện bất hoà để
tranh giành người đẹp. Chưa biết chúa thượng ưng hay không, nhưng rõ ràng có
món ngon vật lạ và những người con gái đẹp kiêu sa đều thuộc về chúa thượng. Từ
trước tới giờ đều như vậy, nếu không tiến cung ắt sẽ bị ghép vào tội khi quân.
Từ khi
nào đó trong lòng canh cánh muốn gặp lại nàng, từ khi nào đó chàng nghe lòng
thương nhớ và như rõ ràng hơn là khi gặp lại Thị Thừa với tuổi dậy thì xuân sắc.
Một người con trai hai mươi tuổi, thân thể cường tráng là một người chứa chấp
trong tim tình yêu mãnh liệt. Hơn bao giờ hết, Nguyễn Hữu Cảnh choáng ngợp với
mối tình của mình, cứ nghĩ như là lần về đây sẽ dạm hỏi cưới nàng ngang hàng
như một gia đình danh tiếng.
Nguyễn
Hữu Cảnh chết điếng khi nghe mẹ khuyên giải như vậy.
Chàng nghe
khô đắng trong miệng, không muốn nói lên những lời lẽ bất bình. Rằng như chàng
mới là người biết nàng từ nhỏ, rằng như nàng đã trốn vào Nam là vì chàng và
chàng đã là người nàng chọn từ đầu và đang yêu thương chàng. Đáp lại, chàng
cũng mong nhớ không nguôi và như phi ngựa nước rút để mong thấy lại dung nhan
diễm kiều ấy. Chúa thượng cũng thấy hai người có tình cảm với nhau đó sao, chứng
kiến hai người dạo trên biển rồi còn gì. Tại sao mẹ chàng có những lời lẻ không
hay, không yêu thương con cái mình mà lại đi nói ra nói vào thế này.
- Chính vì ta yêu thương các con, ta lo cho sự nghiệp của các con. Cho
nên ta mới lo nghĩ bao đồng như vậy.
- Đúng là mẹ ngươi nói đúng! - Tướng Nguyễn Hữu Dật nghe tin chàng về, ra
đón. thấy hai mẹ con trao đổi liền xen vào: Người con gái đẹp thường mang một mối
họa cho người. Ở ngoài xa trường, ngươi cũng đã biết chuyện gì rồi. Trịnh Tạc
gây chiến là vì muốn có người con gái này đó, chúa ta nghe qua chưa tin nhưng lại
muốn ghé nhà. Ta đã nhận thấy chúa thượng mong muốn có nàng, chỉ vì chúa là người
trên cao không muốn để cho ba quân tướng sĩ trông thấy mà khinh khi. Ta cũng cảm
thấy không yên nếu không tiến cung người con gái này.
- Dạ! Con đã nge rõ rồi...
Nguyễn Hữu Cảnh cúi đầu buồn thiu thĩu, đi
đứng có phần không mạnh mẽ nữa. Chàng phải đè nén tình yêu đang cuồn cuộn trong
tim, ghìm nước mắt nhìn người yêu từ thuở nào phải vượt sông Gianh tìm mình, mà
nay có một khoảng trời không sao gần gũi nhau được. Chàng định tìm đến thư
phòng của Thị Thừa phân bua với người con gái ấy, đôi khi muốn cùng nàng trốn
đi đâu thật xa, bỏ lại danh tiếng hư truyền của cả dòng họ.
Nhưng rồi, Hắc Hổ vì sĩ khí anh
hùng, vì tiếng tăm vang danh của dòng họ Nguyễn Hữu, và vì những lời mẹ khuyên
nhủ.
Khi biết tin ngày mai phải theo nhà
Nguyễn Hữu về kinh đô, Đoàn Thị Thừa nước mắt cũng tuôn trào, ý nghĩ đơn giản lấy
người mình yêu sao mà khó quá. Nàng đâu mong ngóng gì phải được ở nơi lầu son
gát tía, nàng chỉ muốn một người có dũng khí và nhiều kỷ niệm của ngày thơ ấu
mà thôi. Không cần là một quân vương, đen đúa như Hắc hổ để chỉ có được những đứa
con khoẻ mạnh. Nàng chỉ mong lấy một người mình biết mặt, chỉ mong lấy người
mình có tình cảm sâu sắc và không cần bất cứ điều gì nữa nên mới cố vượt sông
Gianh gặp chàng. Không biết tại điều gì, nhưng rõ ràng người con gái xinh đẹp
người ta cho rằng sẽ mang hoạ đến. Cái đẹp tự nhiên được trời ban phát, nhưng
người có vẻ đẹp bổng chốc trở thành kẻ tội đồ.
Sáng sớm khăn gối lên đường
vào Thuận Hóa, Đoàn Thị Thừa được ngồi trong chiếc xe ngựa rất đẹp. Nàng được mọi
người canh giữ rất cẩn thận, nàng như là một kho báu đang dâng cho chúa thượng.
Đến nơi, sau khi được diện
kiến chúa. Tức khắc Đoàn Thị Thừa được dời vào hậu cung ngay, các người hầu
giúp nàng thay đổi xiêm y nhanh chóng. Đoàn Thị Thừa thơm lừng mùi nước hoa và
nét đẹp kiêu sa của nàng trước giờ không ai bì nổi.
Mấy anh em Nguyễn Hữu được
Chúa phong chức tước: Nguyễn Hữu Hào tước Hào Lương Hầu, còn siêng năng viết
truyện “Song Tinh bất dạ” bằng tiếng Nôm. Nguyễn Hữu Trung tước Trung Thắng Hầu.
Nguyễn Hữu Tín tước Tín Đức Hầu.
Riêng Nguyễn Hữu Cảnh chúa phong chức
Cai Cơ, một chức võ quan thuộc loại bậc cao. Thay thế cho Hùng Lộc tuổi già sức
yếu, đang trấn giữ mảnh đất mới lấy được của vua Po Nraop nước Chiêm. (Khoảng
thời gian năm 1653 quân Nguyễn đang tiến chiếm Nghệ. Nhân quân Nguyễn Hữu Dật
và Nguyễn Hữu Tiến bị phân tán đánh với Đàng Ngoài, Po Nraop ( dịnh Nôm là Bà Tấm)
đóng quân ở Bình Thuận đem quân ra đòi lấy lại đất Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần
cho Hùng Lộc đang giữ chức Cai Cơ đánh lại. Hùng Lộc vượt Đèo Cả đánh phủ Diên
Khánh (nay là Khánh Hòa), Bà Tấm xin hàng và dâng đất từ sông Phan Lang (Rang)
trở ra làm Phủ Thái Ninh và Hùng Lộc ở lại làm Thái Thú). Nguyễn Hữu Cảnh
được phong chức Cai cơ, thay thế vị trí của Hùng Lộc tuổi đã già yếu trấn giữ
phía Nam. Ở một phương trời xa xăm, lòng chàng luôn thương nhớ về người con gái
đẹp ở lầu son gát tía. Chàng quyết không về Thuận Hóa nữa.
Cung Chúa nằm ở vùng đất cao Kim Long, thuộc đồi
Thiên mụ và bên sông có ngọn đồi Thành Lồi. Nơi đây được chúa trước là Nguyễn
Phúc Lan chọn, còn nói : " Vùng Phước yên rất chật hẹp, rằng hình thể của
Kim Long là rất đáng quý, nên ta cần xây dinh thự, tường thành và pháo đài nơi
đây". Dinh chúa nền được lót gạch viên vuông lớn, giữa có trát vôi đường
làm chất kết dính rất chắc trước nắng gió. Toàn sân gạch rộng khoảng một héc
ta, những cây trồng cho sân gạch mát rượi. Toàn bộ nước mưa chảy qua bộ rễ, rồi
đưa ra ngoài đề theo kẻ con chảy ra sông. Con sông Kim Long hợp với sông Bạch Yến
tạo ra hạ lưu sông Hương, tên ấy bắt nguồn từ tiếng lóng địa phương gọi là
"Hóe" của người Chiêm Thành, dịch ra từ Hán nghĩa là hương thơm nên
dòng sông có tên là Hương Giang là vậy, chừa lại tiếng "Hóe" cho miền
đất này.
Con sông luôn là đường
huyết mạch giao thông, cho nên khó mà tách biệt nó khỏi kinh thành. Dù muốn hay
không, miền đất sinh sôi nào cũng phải dựa theo "phong thủy" ấy. Dinh
vua chúa, bốn bề tường cao bịp leo. Nơi đây được treo đèn lồng đỏ có hình trái
đào, sân có nuôi chim cảnh và ao có cá bơi lội tung tăng.
Ánh nắng
quệt lên tầng mây những đường viền đỏ hồng, càng ngắm về hướng tây thì càng thấy
chiều tà buồn rười rượi. Ngắm nghía hoàng hôn đang buông dần xuống núi, thương
thân trách phận không riêng những bà phi. Ngay cả người nhan sắc mặn nồng như
Thị Thừa, được chúa tin dùng cũng thắm đượm nổi buồn nhớ mong. Từ trong dinh
chúa nhìn ra, bức tranh buổi chiều còn thiếu hình ảnh một người con gái ngồi ủ
rũ, nàng muốn lấy cọ vẽ lên bức tranh được đóng khung bởi vòng bán nguyệt.
Mỗi chiều xuống,
Thị Thừa còn man mác vẻ buồn thương nhớ về Nguyễn Hữu Cảnh. Nhưng càng tỏ ra sầu
thảm bao nhiêu thì nét yêu kiều càng quyến rũ chúa bấy nhiêu, Thị Thừa là một
giai sắc không ai sánh bằng và chúa biết nàng là một giai nhân trước giờ không
ai bì kịp. Thị Thừa ngồi đó không lâu, chúa đã phe phẩy chiếc quạt đi ra ngoài
sân chờ. Nàng phải trang điểm nhanh chóng, để ra đó cùng chúa ngắm rộng ra khắp
núi đồi.
Mỗi buổi chiều tà, chúa
thích ngắm nhìn xuống vực, nhìn con sông nước chảy lờ đờ, nhìn tổng quan cây cối
mát rượi. Chúa thích bao quát mọi việc trong tầm mắt, bằng cách chiêm ngưỡng cảnh
đẹp hoàng hôn và tạm quên chính sự bên một người con gái đẹp, làm cho chúa cảm
thấy non sông như là một buổi chiều nắng đẹp này vậy. Chúa Nguyễn Phúc Tần có
nhiều phi tần mỹ nữ, nhưng không hiểu sao chúa cảm thấy xao xuyến với Thị Thừa
nhiều lắm. Chúa rất khấn khít khi được có nàng, công việc triều chính được giải
quyết hết sức gọn ràng tinh nhanh và được cởi mở hơn bao giờ hết.
Mấy người hầu dọn ra một
chiếc bàn và có ô dù che ở trên. Cái bàn xinh xinh nhỏ nhắn, chiếc ghế gỗ nhỏ
nhắn đủ để hai người ngồi. Chúa ôm Thị Thừa vào lòng, nhưng vẫn cân nhắc mọi điều
song không có ý ghen hờn:
- Thần thiếp vẫn còn lưu luyến Nguyễn Hữu Cảnh ư?
Thị Thừa sa sầm nét mặt, kỷ niệm như
gợi lại nỗi niềm của nàng. Thú nhận thì nàng không dám, nhưng kỷ nào cũng là dấu
ấn khắc sâu đậm trong tâm tư con người, mà là con người thì khó lòng phai mờ
trong một sớm một chiều.
- Hoàng hôn nắng đẹp hiền hòa, cùng ngồi bên chúa công còn gì bằng.
Nàng nói vậy nhưng nàng nghe
nghẹn ngào và kỷ niệm lại quay về với lòng mình. Chúa biết Thị Thừa bằng mặt chứ
không bằng lòng, nhưng nghĩ rằng thời gian sẽ làm nàng phôi pha. Vả lại, cung
chúa là nơi cao sang quyền quí và chúa tự nghĩ mình là người tối thượng ắt sớm
chiều nàng sẽ thuận lòng. Đấng anh hùng nào cũng muốn chinh phục tấm lòng mỹ nữ,
đấng anh hùng phải là người thưởng hoa đẹp nhất cho mình và xưa nay mấy từ
"anh hùng và mỹ nữ" đều như cùng đi cùng.
Đoàn Thị Thừa vào cung của
chúa Nguyễn Phúc Tần, các bà phi bổng chốc không còn được tin dùng nữa. Họ bắt
đầu cảm thấy tới mình bị hất hũi, phận đàn bà về chiều chịu phận kiếp hẩm hiu.
Các bà phi tháp tùng nhau đi ra ngoài chòi để ngâm nga ca khúc, hát hò với nhau
để tìm nguồn vui cung cấm. Đi ngang chỗ hai người ngồi, bất chợt thấy chúa đang
ôm ấp Thị Thừa lòng ghen ghét nàng đến tận tim can.
- Các thần thiếp kính cẩn bái lại chúa thượng.
Họ buộc lòng phải làm lễ nghi, nhưng
hướng mặt về phía chúa Nguyễn Phúc Tần chứ không tưởng là Đoàn Thị thừa cũng được
bái lạy. Họ phe phẩy chiếc khăn trên tay rời đi ra vườn hoa, lòng còn hờn dỗi
chúa và Thị Thừa lắm.
Thị Thừa cũng nhận thấy họ không ưa
gì mình, chi bằng mình xin chúa thượng cho phép mình về với Nguyễn Hữu Cảnh.
Song, trong lòng nàng chỉ nghĩ đến điều đó chứ không dám lên tiếng. Nàng biết
là chúa thượng sẽ nổi cơn tam bành, đó là điều cấm kỵ vì khi chúa thượng đã
thích ai rồi thì người khác không được bén mảng đến, khi chúa thượng đã tin
dùng rồi thì lòng mình cũng không được tơ tưởng đến người khác và nếu khi chúa
mất thì những cung tần mỹ nữ mệnh danh là của chúa thượng, một là chết sống
theo chúa hoặc là phải ở vậy suốt đời không được lấy bất cứ người nào khác.
Đoàn Thị thừa nghe chua cay và đau khổ vô cùng, bởi vì nàng biết không bao giờ
còn gặp Nguyễn Hữu Cảnh được nữa, chứ đừng nói gì tới chuyện ăn đời ở kiếp với
nhau. Họa chăng, nàng được chúa thượng thương yêu là diễm phúc, là sự an ủi cho
nàng đến giờ phút này. Họa chăng nàng ngồi bên người, những cử chỉ vuốt ve gây
cho nàng cảm giác hồi hộp và nghe cũng thấy thích thú. Bàn tay mềm mại của chúa
thượng êm đềm nhẹ nhàng, cứ lần lựa vào thân thể, làm nàng có cảm giác tê dại.
Nhưng nàng biết cảm giác kia, được ve vuốt từ bàn tay của chúa thượng hoặc
của người đàn ông nào cũng vậy. Đó là cảm giác giác được tạo bởi từ bản năng,
người con gái có cảm giác hồi hộp hơn cũng vì trời đất sinh ra cảm giác như vậy.
Thế nhưng, người con gái có được cảm giác hồi hộp hơn khi được người mình
thương yêu nhất đụng chạm, chứ không phải ai cũng thích. Nàng cố gồng gượng
nhưng sợ chúa thượng tự ái. Nàng không dám gỡ tay chúa thượng, mà không gỡ tay
ra thì cảm giác cứ tăng lên vùn vụt.
Phần chúa thượng là người đã trãi
qua nhiều lần với nhiều người con gái đẹp, biết được những nơi chốn hiểm yếu
trên thân thể gây cảm giác tăng mạnh và khó lòng ai có thể gượng lại. Phần lớn
họ sợ sự hồ đồ, nên chúa cứ lần lựa mà chọc tức. Vài lần như vậy, ắt sẽ quên phắt
Nguyễn Hữu Cảnh và rồi Thị Thừa sẽ không còn ỏng ẹo như những lần trước.
Cuối cùng, Thị Thừa không thể nín thở mãi,
thở hắt ra rồi câu tay ôm choàng lấy người mình không mấy yêu thương nhưng đang
làm mình tê dại và theo bản năng nàng không còn biết trời đất gì được nữa.
Khi chúa thượng thích thú thì ở đâu chúa thượng cũng muốn, Thị Thừa cũng là người
làm cho chúa muốn theo sở thích của mình và gần như không cần đợi đến đêm hôm.
Mấy việc đó người khác nhìn thấy không ai có thể thông cảm được, những người hầu
tuy lấy tay áo che mắt mình nhưng việc xì xào cho nhau nghe không phải là không
có. Tuy biết thọc mạch có thể bị mất mạng, nhưng mấy người hầu học thức thấp
kém, cho vài nén bạc thì có thể dụ khị họ kể cho nghe mấy chuyện phòng the đó.
Cho nên, mấy bà phi ra vườn hoa ngâm nga các ca khúc, thấy mấy con hầu đi ra liền
cho vài nén bạc và mấy bà biết được tỏng được chuyện tiếp theo ban nãy. Một bà
nhỏ nhẹ:
- Đúng ra cũng không cần hỏi, tưởng tượng...cũng biết...
Trong Dinh chúa có người trông coi việc lễ nghi: Đó
là Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều, người thân cận điều tiết việc cung đình và hậu
cung. Ông ta là lão già rất khoái nghe mấy chuyện ấy, hay giả vờ bảo những đứa
hầu thân cận của chúa mang vác các vật dụng sang nhà mình để sửa chữa, rồi giữ
họ lại lấy lòng và động viên:
- Ta với ngươi mà sợ chi, kể ta nghe không bao giờ ta nói ai.
Đứa con gái hầu hạ cho cho chúa thượng
tin thiệt, cũng sợ bị đòi lại mấy nén bạc. Nó nhìn trước ngó sau, rồi te lẹt:
- Hai người cứ gần nhau là...lia lịa, cũng thật là hiếm thấy.
Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều nghe thế chưa
lấy làm đã tai, liền nói bóng gió:
- Ngươi có sạo đó không? Nói không rành rẽ ta trị tội cho...
- Chưởng dinh bảo cứ kể cho nghe sao lại đòi bắt tội. Chúa thượng mò mẫm
Thị Thừa lần nào cũng không nhịn được, người đẹp cỡ nào cũng phải chịu thua
chúa thượng thôi.
- Ta không nói là trị tội ngươi, nhưng ta muốn hỏi là chúa thượng
"gây chuyện" trước hay Thị Thừa.
- Đương nhiên là chúa thượng chứ ai. Nhưng người đẹp kia là nguyên nhân,
khó ai mà kiềm lại được...
- Theo ngươi nghĩ, Thị thừa có phải thuộc loại dâm dục không chứ?
- Không đâu! Nếu nói dâm loàng thì chỉ có chúa thượng...
- Ngươi...
- Dạ! Chưởng dinh tha tội...
Đứa con gái vội bịt miệng, biết
mình lỡ lời nói quá. Nó liền quì xuống xin tội, mắt rầu rĩ...
- Ngươi đứng lên. Sau này không kể ai nghe việc ta hỏi và nhà ngươi cứ
cho là do con Thị Thừa dâm loàng nghe chưa?
Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều thường giao
du đến các phòng của các bà phi, cũng biết mấy bà tuổi về chiều khó lòng được
chúa thương yêu nữa nên có tính ganh ghét. Mấy chuyện nghe kể kia kể lại và có
ý xuyên tạc Thị Thừa:
- Con nhỏ đó là con hồ ly tinh, nó dâm loàng quá độ...Chúa thượng sớm muộn
ngã bệnh ắt nó phải là người chịu tội.
- Ta biết làm sao đây, ngươi có mưu kế gì giúp ta để cứu chúa thượng?
- Thật là khó, chúa thượng hiện đang tin yêu nó quá mức. Nhưng sớm muộn
thần sẽ làm cho chúa thượng sớm tỉnh ngộ.
Chưởng dinh Nguyễn Phúc
Kiều rất không hài lòng khi thấy chúa thượng cho phép Thị thừa ngự triều, tuy
chỉ là đứng sau cầm quạt.
Chưởng Dinh Nguyễn Phúc
Kiều thường phải nhắc nhở mấy viên quan trẻ:
- Coi cái gì mà coi, mỗi người một ô làm như vầy mà còn dồn tới là sao...
Việc Thị Thừa đứng hầu, cũng
có gây rối tôn ti trật tự một ít. Thỉnh thoảng, có mấy viên quan trẻ tuổi ở
biên ải vừa lên chức về chầu. Họ bàn tán xôn xao:
- Tên nghe xấu hoắc vậy...
- Tên xấu, nhưng người đẹp lắm đó...
Họ muốn vào sớm để tìm chỗ thuận
tiện đứng chầu, để nhìn ngắm Thị Thừa cho đã con mắt. Mấy viên quan chức nhỏ biết
không thể nào với tới được, nhưng ngắm nghía một giai nhân tuyệt sắc thì khó cầm
lòng lại được. Những lần trước mấy người này phải đứng xa ở ngoài chánh điện,
mà cũng lần lựa tiến sát vào trong, làm cho hàng ngũ không còn chĩnh tề nữa.
Chưởng dinh đếm mấy bước
chân, rồi kẻ ô cho đều đặn để các quan ngự triều đứng vào ô của mình. Nhất là mấy
viên quan trẻ tuổi, ông ta nhắc nhở:
- Trước khi vào chầu, phải tìm chỗ tiểu tiện trước để khi chầu chúa không
thể bỏ ra. Vào chầu là bí lối, nên việc gì cũng phải nhớ lo từ ở ngoài. Sân trước
ngọ môn cũng lớn, chầu xong mấy quan nào cũng ẩu tả vào mấy gốc cây là không được.
Mấy viên quan trẻ háo hức quá, muốn
vào chầu sớm thì dễ bị vài việc phiền phức. Mấy người trẻ tuổi nhìn hoài tìm chỗ
mà không biết đi đâu, dinh chúa là chỗ uy nghiêm ai nào làm chỗ cho bọn quan
hèn. Chưởng Dinh cho họ đi đở vào nhà mình, rồi dặn dò:
- Lần này thôi đó, sau này không cho nữa đâu...
Sau khi chuẩn bị đâu đó, sáng
sớm trời chưa sáng tỏ họ vào triều. Từ khi có Thị Thừa hầu hạ, chúa Nguyễn Phúc
Tần ngự triều hơi muộn một chút nhưng không đến nỗi phải chờ đợi lâu. Khi chúa
bước ra, an vị và đợi khi các quan thần làm lễ bái xong, thì các quan mới được
ngước nhìn lên xem "mặt rồng". Thế nhưng, mấy viên quan trẻ xem
"mặt rồng" thì ít mà xem người đứng cạnh chúa thượng thì nhiều. Họ
xem qua cái cách Thị Thừa quạt cho chúa, chặc lưỡi than thân trách phận chuyện
gì đó. Nàng ỏng ẹo rót nước cho chúa, ở dưới cũng khó lòng nào mà tập trung.
Các quan báo cáo tình hình, điểm
qua vài sự kiện ngắn gọn về việc thu thuế má và mua sắm quân trang, không có gì
đặc biệt nên chúa cứ hay liếc mắt về người con gái mà chúa yêu thương hơn là
nghe các quan phân tích sâu sắc những diễn biến trong dân chúng và họ cảm thấy
lời mình nói có vẻ lợt lạt.
Mấy viên quan chức to đến giờ
giải lao, thì cố gắng đặt chuyện trọng đại quốc gia lên hàng đầu. Họ khinh khỉnh
đám viên quan cấp thấp, rồi dõng dạc trách cứ như không cần biết tâm tư mình
cũng phân tán:
- Mê muội đàn bà đẹp là cái xấu nhất trên đời...
Họ đưa ra cái quan điểm nghiêm khắc
với đám quan trẻ, tuyệt đối không được để lòng sa ngả. Nhưng nói câu gì cũng có
mặt trái của nó, nói câu ấy khác nào nói chúa Nguyễn xấu. Đám quan nhỏ to tranh
luận, rồi miệt thị cái đẹp là cái thường mang đến tai ương và quan ngại nó ẩn
chứa nhiều rủi ro nhất. Họ chứng tỏ mình phải cảnh giác với người đẹp, người đẹp
thường độc ác và chứa chấp nhiều mối nguy. Cuối cùng, họ phải đưa ra cái cách
nào đó để diệt trừ mối nguy ấy và mình như là người chăm lo chính sự là
tương đương với một người rất có đạo đức.
Sự việc ngấm ngầm được thêu dệt bùng lên
nàng là hồ ly tinh hiện hình cũng có, nàng là nguyên nhân làm cho chúa thượng bị
mê hoặc bỏ bê triều chính, hoặc rối rắm hơn nữa nàng có thể là gián điệp của
quân Trịnh cài cắm để khuynh đảo triều chính..v..v. Thế nhưng, không có ai dám
đứng ra phàn nàn việc chúa mê đắm Thị Thừa.
Thấp thoáng thời gian trôi đi nhanh
chóng, mấy năm ròng rã trôi qua nhưng ít khi chịu về chầu. Vị Cai cơ trẻ tuổi
tài cao đó là Nguyễn Hữu Cảnh, kiếm cớ rằng biên thùy còn nhiều việc phức tạp
nên cần phải ở đấy. Chàng hay đi tuần thú ở các bãi biển đẹp Diên Khánh (Nha
Trang), vẫn luôn nhớ đến nổi buồn vời vợi nào đó.
Nhìn biển trong xanh, sóng vỗ
về vào bờ tuy nghĩ mình không nên tơ tưởng nhớ về cung phi của chúa, nhưng hình
ảnh của Thị Thừa luôn thôi thúc trong lòng mong rằng có ngày gặp nhau lần nữa.
Chàng nghe được chuyện chúa rất thương yêu Thị Thừa, say mê đắm đuối và được
chúa cho ra cả nơi triều chính. Giờ nàng đã là người của quân vương, Nguyễn Hữu
Cảnh nay đã thành bề tôi nên không dám tơ tưởng đến hình bóng của nàng được nữa.
Chàng còn mong rằng nàng được hạnh phúc và được chúa tin yêu là đã mãn nguyện lắm
rồi.
Những con sóng đến
như tạo dựng những hình ảnh dồn dập, đến rồi đi. Bờ cát trắng mịn thoai thoải,
dấu chân những chú cua mượn vỏ óc để lại, tựa như mảnh đất phương Nam thu nhỏ lại
trong tầm ngắm. Con người giao thương với nhau và cơn gió đẩy cát lớt phớt như
một mảnh sương mù mờ mờ thì phải có người nào đó đứng dưới đó chứ. Ánh mắt ngắm
nhìn xa khơi các hòn Tằm, Hòn Mun, Hòn Tre chàng như thao thức tình yêu của
mình có ngày được sắp xếp lại. Trong tiềm thức ai biết được nó gợi lên những
hình ảnh gì, nhưng khi ý thức chợt choàng tỉnh lại thì chàng nghĩ không thể như
vậy, không nên nghĩ người con gái đẹp đã thuộc về chúa, nghĩa là mình còn tơ tưởng
những điều hảo huyền. Đấng anh hùng đứng thẳng trên cái riêng tư, nhìn đất
phương Nam ổn định chàng rất muốn suy tư cho điều đó. Mở rộng biên cương về
phía Nam, lịch sử sẽ ghi nhận chiến tích của mình mãi mãi.
Cai Cơ nghe dịu vợi, tình cảm như
cái nghiện ngập của con người. Thỉnh thoảng muốn quên đi mãi mãi thì thấy hối
tiếc, còn vương vấn trong đầu những hình ảnh không có thể như là làm cho mình tự
bại hoại vậy. Mỗi cách mỗi kiểu, tư duy sao cho mình tồn tại hiện hữu, xác đáng
nhất.
Chàng nhớ về câu chuyện An Lộc Sơn
thương thầm Dương Quí Phi, rồi kéo quân về Trường An để đòi nàng. Vua Đường tiếc
nuối nên suýt mất ngôi, quần thần khuyên nhủ Hoàng đế tiêu diệt nàng để bảo đảm
ngôi vua. Cai Cơ xua mọi ý nghĩ manh nha ấy, chàng nhất nhất là bề tôi trung
thành với chúa Nguyễn, thề mình không được vì tình yêu bồng cháy với Thị thừa
mà đem quân về Thuận Hóa để được có nàng. Chiến sự chẳng có lợi cho nước nhà,
quân Đàng Ngoài chắc chắn sẽ dựa vào mâu thuẫn đó mà tiêu diệt nhà Nguyễn, thử
hỏi lúc đó chàng có thể yên thân sống bên người đẹp được không, mà còn để tiếng
xấu muôn đời.
Ở Thuận Hóa, Thị Thừa
cũng cùng chúa ngồi nhìn ra biển, phe phẩy quạt ngóng trời mây. Tuy bên cạnh
chúa nhưng bao giờ kỷ niệm ngày xưa nàng vẫn nhớ về Nguyễn Hữu Cảnh, một thoáng
kỷ niệm ngày xưa dần qua mắt nàng. Thị Thừa bên chúa Nguyễn Phúc Tần cũng canh
cánh nhớ lại kỷ niệm xưa. Nàng nhớ từng kỷ niệm hai đứa đi bắt cá, nhớ đến những
chữ viết chàng dạy nàng học, nhớ lời khẳng khái của chàng muốn chiếm vùng đất
phương Nam. Thời gian trôi qua chín năm ròng bên chúa, nàng được sống trong
nhung lụa tơ tằm, được cung phụng vì chúa yêu thương mình nhất. Nhưng mong ngày
nào gặp lại nhau, thấy nhau như để biết được nhau xem hiện giờ chàng ra sao,
khát khao như thể có thể tái hiện lại thời gian trước. Trời xui đất khiến thế
nào đó để hai người có thể tung tăng vui đùa, phải chi chàng ở trong triều
chính hằng ngày gặp mặt cũng vơi bớt phần nào nhớ nhung.
Đó cũng là những ngày xảy ra một
chuyện trọng đại được lịch sử ghi nhận sau này. Đó là việc mở mang bờ cõi về
phương Nam:
" Hôm đó miền biển Tư Dung (Thuận
Hoá) trời hoàng hôn mây xanh ngát, bổng hai đoàn tàu chiến xuất hiện (Có tài liệu
ghi nhận là một đoàn tách ra vào cửa biển Đà Nẵng-tg). Cờ bay lất phất trông
nhìn kỹ đó là cờ của nhà Minh. Hai tướng Tàu là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng
Xuyên bất mãn nhà Thanh, họ mang theo gần ba ngàn người trong tộc chở trên 50
chiến thuyền. Họ muốn tị nạn trên đất Việt.
Đoàn chiến thuyền bị chặn
phía ngoài, hỏi ra mới biết đó là đám tàn quân của nhóm Dương Ngạn Địch. Họ gởi
tâm thư cho chúa Nguyễn Phúc Tần để trình bày nguyện vọng của mình. Cả triều
đình chúa không muốn day dưa với đám tàn quân chống Thanh phục Minh, cho nên
không muốn để họ yết kiến. Chúa Nguyễn suy tư mấy ngày, Đoàn Thị Thừa hầu cận
bên chúa nàng liền phân trần:
- Chúa Thượng cản trở không cho họ nhập cư vào Thuận Hoá, nhưng chúa thượng đuổi
họ đi là không hay lắm. Cảm giác họ là những người thất thế, nhưng thực sự họ
có ba ngàn người trên thuyền chiến. Nếu xử lý không khéo, ở thế không còn đất để
ở thì họ sẽ chiếm đóng luôn đất Thuận Hoá.
Chúa rất yêu thương vì sắc vóc, nay Đoàn
Thị Thừa tỏ rõ trí thông minh hơn người chúa yêu thương gấp bội. Các quan triều
nhìn thấy người đàn bà đẹp làm cho chúa mê đắm, giờ đây chen vào việc nước
không mấy vui lòng, nhưng cũng có phần nào đó nịnh chúa để được yên thân.
- Tâu chúa! Đúng là sau những năm tháng chinh chiến với quân Trịnh. Quân ta nay
chỉ hơn hai ngàn binh mã mà thôi, lại thêm mệt mỏi vì chiến tranh liên miên. Một
mặt quân tình dàn trãi ra ở Nam Bố Chính và Nguyễn Hữu Cảnh canh giữ phía Nam.
Cái cớ là xin tá túc, nếu ta không cho ở thì dã tâm đánh ta để chiếm đất không
hẳn là không có. Với lực lượng ba ngàn người, lại ở trên những chiến thuyền
trang bị đầy đủ súng ống và đại bác. Họ không có đất dung thân ắt họ sẽ đánh
chiếm Thuận Hoá. Xem chừng ta không chống đở nổi.
Chúa Nguyễn Phúc Tần đăm
chiêu. Một lúc thì đồng ý phải tìm mưu kế, nếu không khéo léo để cấp đất cho
hai danh tướng, mà để lộ quân tình ít ỏi lại đang kém cõi, thì dã tâm của họ sẽ
manh nha đến vùng đất này.
- Các ngươi hãy gấp rút chiêu mộ quân sĩ, già trẻ và cả nữ nhi. Tất cả phải
mặc áo lính tráng và trang bị đầy đủ giáo mác. Ta nhờ Thị Thừa lo phần trang phục
cho các nữ sĩ, còn các người phải lo sắp xếp hàng ngũ cho họ thật uy nghiêm.
Chúa Nguyễn Phúc Tần ban
lệnh gấp rút, phải đào tạo những người dân bình thường thành lính tráng. Mấy
ngày sau sắp xếp xong đâu vào đó, Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên mới được
diện kiến chúa. Họ ngạc nhiên vì dân tình như sẳn sàng chống giặc ngoại xâm, ở
đâu cũng thấy khí thế hùng hồn. Đàn ông, đàn bà và cả con gái đều ăn mặc áo
lính, gươm giáo tuốt trần. Cả hai kinh hãi, ý đồ đánh chiếm luôn đất Thuận Hoá
không còn manh mún.
Họ kính bái chúa:
- Chúng thần muốn làm con dân nước Việt.
Biết hai người trúng kế mưu của mình sắp đặt,
thực tâm muốn làm công dân nước Đại Việt. Trước đây năm 1658 - Thời gian tiến
chiếm bảy huyện Nghệ An được ba năm. Ở phía Nam vua nước Chân Lạp mất, nội bộ họ
tranh giành ngôi với nhau. Năm 1673, sau khi đình chiến với quân Trịnh. Nước
Chân Lạp phía Nam lại nổ ra việc tranh chấp quyền lực. Hai anh em Nặc Đài và Nặc
Thu gây sự, chúa Nguyễn Phúc Tần bắt sống được Nặc Đài. Sau đó, chúa lại phải đứng
ra giảng hòa giữa Nặc Nộn và Nặc Thu bằng việc phong cho mỗi người làm vương một
vùng. Nặc Thu làm chính vương ở Udong, còn Nặc Nộn làm phó vương đóng ở Prei
Nokor (Sài Gòn).
- Giữa hai anh em Nặc Nộn và Nặc Thu. Ta giúp người anh là Nặc Nộn làm
vua phía Đông, còn người em là Nặc Thu làm vua ở một phía Tây. Nhất là
người anh (Nặc-Nộn) phải cho phép người Việt khai hoang Vũng Cù ( vùng quen biển
Đồng Nai, Bà Rịa, Sài Gòn) và hằng năm phải triều cống. Ta cho một đội quân
canh giữ an ninh khu vực ở phía trong đó, để thu nhận thuế hằng năm. Ta còn hai
nơi hoang hoá nhưng đất đai màu mỡ, ta giao cho các ngươi đất Bản Lân và Vũng
Cù. Hằng năm các ngươi phải triều cống cho ta, thì sẽ được ta bảo hộ.
Nói xong, chúa cho thảo bức thư, rồi
nói với Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên:
- Các ngươi mang thư đến vị phó vương đất Chân Lạp đang được ta bảo vệ, yêu cầu
cấp đất cho các ngươi ăn ở. Chắc chắn rằng ở đó sẽ đồng ý, các ngươi hãy đi đi.
Chúa Nguyễn Phúc Tần khôn khéo chỉ
hai mảnh đất của người Chân Lạp và giao cho hai tướng nhà Minh khai hoang. Thứ
Nhất, cái lợi là đẩy nhóm người này ra xa kinh thành Thuận Hoá: Thứ hai, họ
thay mặt Đàng Trong đánh chiếm đất Chân Lạp và nộp thuế cho, thì xử trí như vậy
đều đẹp mặt đôi bên. Hai danh tướng nhận chỉ, tỏ rõ ý phục tùng.
Hai người về hai mảnh đất cách
xa nhau nên không mấy tập hợp quân nhau lại được, ý đồ chiếm đất Đàng Trong
không thành lại mắc mưu kế của chúa. Hai mảnh đất ấy sau được đặt tên lại là Đồng
Nai và Mỹ Tho.
Sự việc Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên diễn ra
vào năm 1679- Lúc ấy Nguyễn Hữu Cảnh đã hai mươi chín tuổi, còn Đoàn Thị Thừa
đã ở trong Dinh Chúa được sáu năm rồi.
Phận nữ nhi không được tham dự
triều chính. Tuy Thị Thừa đã có công vào việc hiến kế cho chúa nhưng chẳng mấy
chốc, sự ghen tuông của các bà phi và những lời lẻ “trượng phu” của các quan thần
cảnh báo: Việc Chúa yêu đương một mỹ nhân say đắm sẽ là một cái họa cho đất nước.
Từ những lý luận của các nhà “hiền triết” xem đàn bà đẹp luôn tiềm ẩn hiểm hoạ,
từ những cái nhìn bàng quang đàn bà đẹp mà không xao xuyến mới là người anh
hùng, nhất là xem nhẹ cái đẹp đó để đẩy giá trị đất nước lên trên hết. Các quan
vẫn canh cánh nổi lòng lo sợ việc chúa Nguyễn Phúc Tần thương yêu Thị Thừa quá
mức sẽ sinh ra chuyện lớn. Họ cũng là những người muốn lấy lòng các bà phi tần
của chúa, dù sao thì họ đã là phe cánh của mấy bà phi từ lâu, không làm gì giúp
mấy bà cũng thấy khó chịu lắm.
Mấy ngày chúa Nguyễn Phúc Tần thực địa
vùng sông Gianh, muốn xem xét đời sống muôn dân có được ấm no hay không? Lần
đó, Đoàn Thị Thừa cũng được chúa thượng cho theo và cũng là lần nàng có dịp
quay đầu hướng về cố hương.
Sau bao năm xa cách quê nhà, sống trong
nhung lụa ở cung cấm. Đoàn Thị Thừa muốn có vài lời thăm hỏi đến người cha
và mấy người anh ở vùng đất của quân Trịnh cai quản. Nàng nghĩ đây là
chuyện riêng, nên không muốn xin ý chúa sợ phiền ngài. Nàng viết một bức thư, kể
lại số phận đứa con gái "hư đốn" trốn nhà ra đi. Nàng không muốn tiến
cung, sống bằng sự yêu thương của con tim nhưng số phận lại đưa đẩy nàng lại
vào cung cấm hầu hạ chúa Nguyễn. Nàng muôn vạn lần xin tạ lỗi công ơn sinh
thành dưỡng dục, nhưng lại làm cho người cha đau lòng. Nàng xin hẹn lại kiếp
sau được báo đáp và gửi một ít nén vàng ròng để cho cha dưỡng già.
Nàng nhờ tên gia nhân sang bên kia vùng sông
Gianh tìm người đưa giúp thơ, nhưng tên gia đinh bị bắt lại vì có sự hồ nghi và
có sự theo dõi từ lúc ban đầu. Lá thơ ấy được gửi về lại triều đình, nằm trong
tay của Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều. Đây là thời cơ để các quan triều chính
cùng với các bà phi mưu toan hại nàng. Họ vạch tội nàng làm gián điệp cho quân
Trịnh. Quần thần so sánh Thị Thừa như là một Tây Thi của Ngô Thừa Sai thời Đông
Chu Liệt Quốc, cần phải diệt mầm móng ấy sớm kẻo không kịp. Ngoài ra, họ còn ái
ngại Nguyễn Hữu Cảnh noi gương An Lộc Sơn dấy binh để đòi lấy Dương Quí Phí.
Cho nên, nàng tồn tại là điều không mấy có lợi, càng sớm ra tay diệt trừ hiểm họa
từ những người con gái đẹp gây ra, thì mối nguy sớm được dập tắt.
Nghe quần thần bàn tán, Chưởng
Dinh đợi khi chúa Nguyễn Phúc Tần về, ông ta tâu trình:
- Dạ! Bẩm chúa thượng, được biết bấy lâu Quận nương và các bà phi không
được chúa ghé. Đó là việc không hay trong nội bộ cung cấm, chúa yêu thương Thị
Thừa nhiều quá. Thần có mấy lời khuyên nhũ.
Chúa Nguyễn Phúc Tần đỡ
dậy, người mà chúa muốn giữ hòa khí nhiều hơn ai hết, nên chúa lắng nghe:
- Ngươi nói đi!
- Bẩm chúa cho thần nói sự thật, dù có bay đầu thần cũng phải tâu lên. Thị
Thừa là người con gái Nghệ An, nơi ấy giờ là thuộc đất của quân Đàng Ngoài. Tuy
ta ký kết đình chiến nhưng ai biết được không xảy ra việc nội gián, tựa như đây
là câu chuyện thời Chiến Quốc. Một mưu kế của Việt Vương Câu Tiễn cống nạp Tây
Thi lấy lòng Ngô vương Phù Sai, để vua Ngô say mê bỏ bê chính sự. Sau mười năm
thì tiêu diệt nước Ngô...
- Ngươi ái ngại cho ta à?
- Đúng vậy, thưa Chúa thượng. Dù muốn dù không, người con gái này đã gieo hiềm
khích trong cung cấm rồi. Các phi tần ganh ghét, các công nương phiền muộn. Đôi
khi họ sẽ ra tay hạ độc Chúa công phải hạch tội, làm cho triều chính bất ổn.
Chi bằng cũng là chết, thì chết có chủ trương sẽ đẹp lòng ba quân. Thần sẽ rao
truyền rằng, chúa thượng là một đấng Hiền Vương không mê sắc giới...
- Hiền vương mà đi giết hại một cô gái yếu đuối tay mềm sao? Có mâu thuẫn
không vậy.
- Ở đời cái gì cũng phải có mưu mô. Tiếng thơm là hiền vương là để thu phục
lòng dân chúng, giữa quân Trịnh và ta sẽ thấy ai xứng danh thờ vua Lê. Cách này
gọi là gậy ông đập lưng ông. Nếu quân Trịnh thực là cài cắm Thị Thừa làm gián
điệp, ta chẳng những giết quách đi mà còn được tiếng thơm với muôn đời...Ngoài
ra, Thị Thừa trước có tình cảm với Nguyễn Hữu Cảnh, không khéo là mối họa như
An Lộc Sơn muốn có Dương Quí Phi nên dấy binh về Trường An. Vậy nên, phải giết
Thị Thừa lúc này là hợp tình nhất.
Chúa Nguyễn Phúc Tần cân nhắc một lúc lâu,
rồi không nói gì nữa. Ba quân tướng sĩ đều kháo nhau ngoài biên thùy, dao động
vì người con gái đẹp ấy có là họa đất nước. Muốn giữ được lòng ba quân, chúa muốn
chém nàng để diệt trừ nhiều mối họa.
Mấy ngày sau, chúa Nguyễn Phúc Tần rất ray
rức. Ngài so đo chuyện yêu đương của nàng với ai,nhưng ngài cũng thấy khổ tâm
vì đấng quân vương ai lại đi ghen hờn. Song rõ ràng, ngài biết Thị Thừa vẫn còn
nhớ nhung Nguyễn Hữu Cảnh nhiều lắm. Tuy cầm trịch được người con gái chúa
thương yêu, nhưng tinh thần vẫn không sao làm cho nàng quên được mối tình xưa
kia.
Ghen tuông và muốn diệt trừ hiễm họa như ý
của các quần can gián, chúa Nguyễn Phúc Tần mang thanh kiếm báu ra quyết tiêu
diệt nàng để trừ hậu họa. Nhưng xuống gươm với một người mình từng thương yêu
cũng khó ra tay, chúa Nguyễn Phúc Tần trăn trở hơn thiệt. Chúa yêu thương Thị
Thừa vài ngày nữa, rồi rút kiếm ra:
- Ta phải giết nàng...
- Sao chúa thượng giết thần thiếp, thần thiếp tội gì...
- Ta phải hy sinh nàng vì đất nước, vì nàng là một mối họa tiềm ẩn.
Chúa định vung kiếm lên, nhưng Thị
Thừa vái lạy:
- Thần thiếp là mối họa nào, thực lòng thần thiếp không hiểu chi cả...Nếu
thần thiếp có tội chết đã đành, mà thần thiếp không hiểu chi rứa làm sao thần
thiếp nhắm mắt.
Chúa thả kiếm xuống, đúng là khó mà
ra tay với nàng được. Người có tội xuống gương còn khó, còn nàng chỉ bị thị phi
thực lòng khó đành hạ gươm. Thị Thừa phân trần:
- Trước đây, thiếp đâu có muốn vào chốn cung đình. Thiếp chỉ yêu thương
Nguyễn Hữu Cảnh, chàng là người thiếp nhớ nhung trọn đời. Vì sao Chúa thượng bắt
thần thiếp phải tiến cung, giờ thần thiếp phải gặp cảnh trái ngang này.
- Vì ta là người đứng trên mọi người, nên ta phải tỏ rõ quyền uy bằng sức
mạnh của mình. Ta không thể nhún nhườn cho người yếu thế hơn ta được, nhưng giờ
mọi người sợ nàng là gián điệp của quân Trịnh, nên buộc ta phải ra tay giết
nàng để trừ hậu hoạn...
- Nếu ái ngại thiếp làm chuyện gì không hay ở nơi đây, hay là chúa thượng hãy
cho thần thiếp về với chàng. Ở biên thùy xa xôi, thiếp có muốn hại ai cũng
không thể làm được.
- Càng không được, ta là chúa thượng cơ mà. Thần thiếp của ta, không ai
được đụng đến. Nếu ta không dùng nữa, thì phải giết bỏ...
Chúa lại giơ kiếm
lên nhưng rồi biết mình không thể xuống gươm với nàng được. Sau bao năm yêu
thương nàng, chung sống với nhau mặn nồng, ít nhiều tâm tình chuyện đời cho
nhau nghe trong đêm thanh vắng. Những lời hứa sống tốt với nhau trọn đời, những
lời thổ lộ về sự nhọc nhằn trong cương vị tối cao và lời hứa sẽ dẹp tan quân Trịnh
trong nay mai để nàng về gặp người thân, với nàng như là một quyết tâm phải làm
cho nàng thấy. Nếu nàng mất, thì như tất cả những kỷ niệm yêu đương đó sẽ không
còn hiện diện, như chỉ là lời hứa khống, mà người quân tử nói thì phải giữ lời.
Nhưng...Vị trí của chúa Nguyễn
Phúc Tần cũng khó lòng không theo lời phán của các quan trong triều. Mặc dù
mình là người tối thượng, nhưng họ không vui lòng là tiềm ẩn việc không phục
tùng và có khi họ tìm đường hàng sang quân Trịnh, là một mất mát lớn. Lại
thêm người thân tín lo cho triều chính là Nguyễn Phúc Kiều cũng có ý cẩn trọng
cho giang sơn xã tắc và tiêu diệt mầm móng hậu hoạn ngay từ đầu là điều người
quân tử cũng cần phải làm ngay. Trong hậu cung không vui, họ lấy cớ Thị thừa
không sinh được con. Giữ gìn Thị Thừa bên mình, lời đồn đại từ trong ba quân
xem chúa của mình không hơn gì Trụ Vương mê đắm nữ sắc, chểnh mảng việc nước
nhà...Thực sự, chúa Nguyễn Phúc Tần có lúc rất khó nghĩ.
Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều mang bộ sách Quốc Ngữ mới
vừa biên soạn cẩn thận, gần như kể về những truyện thời Đông Chu Liệt Quốc và
Kinh Dịch cho chúa Nguyễn Phúc Tần xem qua. Gần như, ông ta hàm ý muốn nói mọi
chuyện khuyên răn chúa đều từ trong sách vỡ mà ra, chứ mình không phải là người
đặt điều. Chúa Nguyễn Phúc Tần chìu theo ông ta, đọc lại câu chuyện về Ngô Thừa
Sai và Việt Vương Câu Tiễn cống nạp Tây Thi. Lúc này, chúa mới nhận thấy có những
việc gần na ná nhau giữa thời xa xưa và thời của mình. Thị Thừa sống bên kia
sông Gianh, nàng chịu làm gián điệp cho quân Trịnh ắt không còn chuyện gì mà
không biết. Còn về việc Tây Thi có tình cảm riêng tư với Phạm Lãi làm chúa cũng
thấy na ná giống với Đoàn Thị Thừa và Nguyễn Hữu Cảnh. Tình yêu của con người
hình như là có thật, chúa biết Thị Thừa vẫn không quên Cai cơ và vẫn thường hay
nhắc đến tên người mình yêu.
Bấy lâu nay, chúa gần như quên
mất việc Cai Cơ không về chầu. Có lẻ, phần nào đó giận hờn việc Đoàn Thị Thừa
tiến cung. Chúa cảm thấy việc tiến cung là do nhà Nguyễn Hữu Dật mong muốn, còn
mình đâu có ép uổng việc đó. Thế rồi, chúa nguyễn Phúc Tần muốn cách gì đó giảng
hòa, chi bằng ra chiếu chỉ cho Cai cơ về chầu để thăm dò việc tình cảm của hai
người.
Khi người thân tín phi ngựa mang chiếu
chỉ ra biên ải, Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Kiều ái ngại:
- Kính chúa! Bấy lâu nay thần ái ngại việc về chầu của Cai Cơ. Nay chúa
ban lệnh cho Cai Cơ Nguyễn Hữu Cảnh về chầu có phải như mang cọp vào chầu, đâu
thể nào đoán biết trước được con hổ ấy hiền hay hung tợn. Vả lại, chúa là người
tối thượng, đường hoàng trên ngôi bệ không lẽ một cung nữ bình thường như Thị
thừa chúa không quyết định được...Mong chúa suy xét, phải ra tay giết Thị thừa
trước, tránh xảy ra những việc không hay ho nào đó.
- Ta muốn cho hai người nhìn lại nhau, xem xét họ có còn yêu thương nhau
nữa không? Giờ ta nghĩ lại, việc Thị thừa tiến cung gây ra bao nhiêu chuyện phiền
toái, lại làm cho Cai Cơ đau khổ vô cùng. ta muốn cho họ gặp lại hoặc cho họ cơ
may nào đó.
- Kính mong bệ hạ suy xét lại. Dù sao, cung tần mỹ nữ của chúa thượng
không ai được đụng đến. Nếu như không muốn dùng nữa, họ phải chết...
Chúa Nguyễn Phúc Tần chấp tay ra
sau, không muốn nghe thêm lời nào nữa. Nhưng Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Kiều dập đầu
xuống đất, khư khư là phải hàng động mau chóng trước khi Nguyễn Hữu Cảnh về
cung. Đằng nào chúa cũng không dùng nàng nữa, tại sao mình phải thêm trò cho
thêm phiền toái.
Chưởng Dinh cứ dập đầu, càng chúa thì khó
nghĩ ngợi. Chúa Nguyễn Phúc Tần gật đầu, rồi cho ông ta lui ra. Thế rồi, ngay
ngày hôm đó. Chúa nhờ Đoàn Thị Thừa mang tấm áo ngự bào trong có giấu một bức
thư, gởi cho Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Kiều giao toàn quyền định đoạt cho ông ta.
Thoạt nhìn Đoàn Thị Thừa
quá xinh đẹp, Chưởng Dinh Nguyễn Phúc Kiều cũng nao nao trong lòng. Sau khi đọc
bức thư giấu trong vải áo ngự bào, đọc thấy những nổi lòng băn khoăn của chúa.
Ông ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc định đoạt phận số của nàng, và có ý như
muốn hòa hoãn, làm sao nàng phải là người phục vụ mình một lần đã. Ông ta phũ đầu:
- Ngươi là một người con gái đẹp! Thế rồi ngươi có biết làm mê hoặc chúa,
là làm tội tình mấy bà phi không?
- Chưởng dinh nói gì thiếp không rõ...Khi thiếp được tiến cung, thiếp chỉ
biết làm sao cho chúa công vui nhất mà thôi.
- Đó là một tội lớn mà ngươi cố tình đấy...
- Thiếp chỉ biết được là mình đẹp, người ta ngắm nhìn thiếp và người ta
mê hoặc. Mọi người ai cũng muốn làm cho người khác vui hơn, thiếp chỉ biết có vậy.
Chúa thượng cũng muốn vậy, ý của chúa thượng là ý muốn tối thượng. Thiếp biết
làm sao bây giờ.
Rõ ràng Thị Thừa thơ
ngây đến đáng tội, nàng không biết gì về sự chiếm dụng. Đôi khi người ta muốn
có người con gái đẹp bên mình, nhưng vì những ràng buộc nào đó người ta không
thể thực hiện, tức thì rất dễ bị lên án.
Tiếng nói nhỏ nhẹ của Thị Thừa như
cào cấu vào sự thèm khát của Nguyễn Phúc Kiều. Ông ta cũng ham muốn được nàng hầu
hạ một lần, một chút loáng thoáng trong đầu, rằng như lời lẽ của chúa trong tâm
thư cho ông ta toàn quyền quyết định. Nguyễn Phúc Kiều lần lựa một lúc rồi quyết
định trước lúc thuốc độc nàng, thì tại sao mình không một lần thưởng hoa.
Thị Thừa đang dần đến cái chết thê
thảm mà còn bị nhơ nhuốc nữa, nàng đâu biết rằng thái độ nhẹ nhàng của Chưởng
Dinh là những lời bóng gió có ý hãm hại tiết hạnh, mà còn là lời tuyên bố sớm kết
thúc một mạng người. Ông ta cho những người hầu ra ngoài, bất chợt choàng lấy
Thị Thừa và thỏ thẻ vào tai nàng những lời dụ dỗ:
- Ngươi có biết là ta can gián chúa thượng đừng giết ngươi không? Ta cũng
mê đắm ngươi vô cùng, nhưng phận ta làm sao được đụng chạm tới người của chúa
công được...
- Chưởng dinh nói sao vậy? Thần thiếp được dạy giữ gìn tiết hạnh với chúa
công rồi, không thể được...
Thị Thừa giãy nảy, rồi thoát ra được khỏi
tay Nguyễn Phúc Kiều. Ông ta sửa lại mủ mão, rồi nghiêm khắc:
- Ngươi đâu biết là ta có thể định đoạt số phận của ngươi rồi, ta là người bày
kế nói ngươi là gián điệp của quân Trịnh đấy. Chúa thượng rất tin ta, ngươi phải
chết chứ đừng có mà giữ gìn tiết hạnh...
- Tại sao Chưởng dinh muốn thiếp phải chết...
- Bởi vì làm như vậy, ta cũng có cái lợi là được người nhìn mình không quá ham
mê nữ sắc, được chúa tin yêu mà còn khen ngợi là người biết phòng xa. Ta là người
vì giang sơn xã tắc, vì các bà phi tần của chúa thượng.
Ông ta cứ nghĩ là Thị Thừa
hiểu rõ nên tới sát bên nàng, người ngộm đang rung lên vì khát khao ôm ấp người
con gái đẹp. Tuy vậy, Thị Thừa theo phản xạ mà né ra, chứ không phải vì chê bai
ông ta hèn hạ. Lúc ấy, ông ta muốn cắn xé vào da thịt nàng và tìm cách cho nàng
phục tùng mình một cách nhanh chóng.
Trong bức tâm thư, chúa
Nguyễn Phúc Tần cũng có ý ghen tuông, giao quyền giết nàng chứ không được phép
đụng chạm vào nàng. Một lúc sau, Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều biết khó lòng thưởng
hoa, sợ đổ bể thì mọi mưu mẹo đều trôi sông trôi xuống biển. Thái độ của ông ta
có phần nào tập trung hơn, hướng về Thị Thừa mà ngợi khen:
- Ta chỉ thử tiết hạnh ngươi xem mà thôi, giờ đây ta biết ngươi là người
cũng khá tốt.
Ông ta pha cho Thị Thừa một ly
rượu đào, làm bộ khen ngợi nàng đủ điều. Thị Thừa nhìn ly rượu cũng thấy khác lạ,
nhưng nàng được nghe những lời nói phải trái nên cũng thích thú:
- Thần thiếp tay mền chân yếu, sống ở nơi cung cấm chỉ biết để phục vụ
chúa. Chúa thượng không sợ quân nhà Trịnh, xông pha xa trường không ngại nguy
nan, không lẻ thần thiếp lại là người để chúa Thượng và Chưởng dinh phải e dè
sao?
Không biết được những
mưu đồ của giới chính trị, Đoàn Thị Thừa ngoan ngoãn uống ly rượu độc do Nguyễn
Phúc Kiều ban thưởng. Nàng còn đa tạ, rồi ngồi chờ phúc đáp thư về cho chúa.
- Ta đã phúc đáp thư cho chúa thượng rồi!
Thị Thừa nhìn Nguyễn
Phúc Kiều, không thấy ông ngồi viết chữ nào cả. Nàng mang máng điều gì đó, rồi
nghe chất độc nồng cháy dần dần vào tim phổi. Nàng nghe cổ họng thắt lại, mắt
trợn lên một lúc vì xâu chuỗi mọi sự việc lại. Nàng biết mình đã uống ly rượu
có độc tố...
- Thiếp uống ly rượu có độc...Chưởng dinh ơi! Có cách nào cứu thiếp...
Thị Thừa nài nĩ, nhưng cũng biết
không thuốc nào cứu chữa mình được nữa. Lúc bấy giờ, hình ảnh Nguyễn Hữu Cảnh
như hiện ra trước mắt, chỉ có huynh ấy là người còn nghĩ tới nàng là tốt. Nàng
cảm thấy như ngoài sân có người đang chạy vào, nàng nhìn và biết đó là Cai cơ,
nhưng nàng cũng biết chàng chậm mất rồi.
Từ biên ải giông buồm về cửa biển
Thuận An, rồi nhanh chóng đến dinh chúa. Nguyễn Hữu Cảnh nghe đồn đại trong ba
quân, những lời xì xầm về người con gái đẹp ấy, rằng đấy là hồ ly tinh hiện hồn
để mê hoặc chúa, rằng đó là người phía bên kia sông Gianh nên phải cảnh giác, rằng
nàng có thể là người của quân Trịnh cài cắm để chúa quên chuyện triều chính.
Nàng phải chết nếu không thì chúa Nguyễn sẽ bị quân Trịnh thôn tính, chàng cảm
thấy bất công cho nàng quá. Nguyễn Hữu Cảnh nghe được chuyện bàn tán xôn xao của
các quan thần. Người ta e ngại nàng là gián điệp của quân Trịnh, còn sợ chàng
là An Lộc Sơn quyết chí san phẵng Trường An để cố gặp Dương Quí Phi. Cho nên
Nguyễn Hữu Cảnh chỉ một mình vào triều xin cho nàng thoát tội bị vu oan đó.
Vào triều, chàng làm lễ
bái kiến và đưa ra những lý do lâu nay không thể về chầu là vì công việc. Nhưng
chúa Nguyễn Phúc Tần biết tỏng là chàng phật lòng vì mất người mình yêu thương,
nên dạm hỏi Cai cơ:
- Ngươi về đây, có ý muốn gặp Thị thừa một lần không?
Nguyễn Hữu Cảnh lo lắng
chưa dám trả lời, chàng chỉ muốn phân trần. Chàng cho biết rằng nàng từ nhỏ đã
là tri kỷ và là một người con gái hiền lành và rằng nàng là một người đơn thân
độc mã sao có đủ sức làm ra những chuyện tày đình như vậy.
Chúa Nguyễn Phúc Tần đích thân
đỡ chàng dậy, phân bua rằng muốn cho ba quân tướng sĩ thấy mình là một vị Chúa
hiền biết chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc. Chúa Thượng cho biết đã đưa tấm áo
ngự bào cho Thị Thừa, nhờ Chưởng dinh giết nàng bằng việc pha thuốc độc.
- Chúa thượng...Sao ạ?
- Có lẽ ngươi về kịp lúc, hiện tại Thị Thừa đang ở nhà của quan Chưởng
Dinh.
Hữu Cảnh cúi chào bái tạ chúa, rồi
nhanh chóng sang tư dinh nhà Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều. Cai cơ mới bước vào
sân nhà, thấy ông ta đang nhìn ra ngoài ngỏ. Chàng đã nghe tiếng kêu cứu của
Đoàn Thị Thừa, liền vội vã đến bên nàng:
- Thừa muội! Ca ca đây. Ca ca về để phân giải rõ ràng sự tình cho chúa hiểu...
- Ca ca ơi! Thiếp giờ mới gặp lại nhau, nhưng cũng là giờ...phút vĩnh biệt...rồi...
Thị Thừa ngấm thuốc nên
quỵ xuống, Nguyễn Hữu Cảnh bế nàng rồi lay lắc:
- Muội hãy cố lên, ca tìm thuốc giải đây...
- Không kịp nữa rồi! Thuốc độc đã lan tỏ khắp người muội rồi...- Thị Thừa
cố nhơn nhớn cái nhìn về phía Chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều, chỉ có ông ấy mới
có thể cứu mà thôi. Nhưng biết mình không còn bao nhiêu thời gian nữa, Thị Thừa
cố không để lời mình lắp bắp - Ca ca hãy một lòng thờ chúa công, đừng vì chuyện
này mà hờn dỗi gây sự đó. Chết sống là ý chúa công, muội phải đi rồi...- Thị Thừa
còn thở lấy được một hơi nữa, còn thở nàng còn cố gắng trăn chối- Muội không thấy
được ca ca bình định phía Trong rồi, nhưng muội tin ca ca làm được...
Sau bao nhiều ngày tháng
thương yêu và đợi chờ, khi gặp lại nhau cũng là thời khắc Thị Thừa phải ra đi.
Nguyễn Hữu Cảnh chạy vào can gián không kịp và nhìn nàng chết tức tưởi trên
tay, máu tràn ra đầy miệng. Chàng đau lòng vuốt mắt nàng, nàng chỉ đơn giản muốn
sống cùng người mình yêu. Nguyễn Hữu Cảnh rất hiểu nàng yêu mình, chỉ đơn giản
vượt sông Gianh vào Nam là vì mình. Thế nhưng, đời o ép người đẹp là người của
vua chúa, ép nàng phải tiến cung mới nên cớ sự như thế này. Hậu quả của những
giai nhân sao mà thê thảm quá, gần như người ta nói “hồng nhan thì phải bạc phận”
đó sao.
Nguyễn Hữu Cảnh xin được chôn xác nàng, đem nàng
ra nơi gặp nhau khi chàng cứu mấy con cá voi. Đây là lần chàng phá vỡ luật vua
tôi hiếu nghĩa, chàng vì hiếu nghĩa mà nghe lời mẫu hậu để nàng tiến cung, đạo
bề tôi nên mới cống nộp cho Chúa. Một chàng dũng sĩ đâu phải chỉ gan dạ trên sa
trường, nếu chàng dũng cảm hơn cùng tranh giành tình yêu với Chúa ắt cuộc đời
nàng sẽ khác hơn bây giờ. Yêu nhau là người ta mắc nợ nhau cuộc đời, thế mà
chàng không dám bảo vệ cho tình yêu của nàng lúc ban sơ.
Sau cái chết của Đoàn Thị Thừa, Chúa Nguyễn Phúc Tần
được mọi người gọi là Hiền Vương, cũng muốn cho nhân gian thấy mình đặt giang
san xã tắc trên hết, cũng lo sợ rằng nàng làm cho mình mê muội. Sau khi các
quan đem lịch sử Tây Thi cho Chúa coi, nên quyết định hành quyết Thị Thừa “làm
gương”. Dân tình trong nước cảm phục và người ở Đàng Ngoài rất muốn vượt sông
Gianh vào Nam để thờ Chúa.
Ngay sau đó Chưởng Dinh Nguyễn
Phúc Kiều ghi nhận vào lịch sử : "Hiền vương là người chăm lo chính sự, xa
rời nữ sắc, biết trọng nhân tài. Có người con gái quê Nghệ An rất xinh đẹp tên
là Thị Thừa được lấy vào cung phục vụ chúa. Nguyễn Phúc Tần, nhân đọc sách Quốc
ngữ, tới chuyện vua Ngô Phù Sai mất nước vì nàng Tây Thi liền tỉnh ngộ sai Thị
Thừa mang ngự bào cho chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều, giấu thư trong dải áo ngầm
sai Kiều bỏ độc giết Thị Thừa để trừ hậu họa". (tg trích từ dòng lịch sử).
Nguyễn Hữu Cảnh đọc dòng lịch
sử ghi nhận thản nhiên như vậy cũng đau lòng không kém, người con gái họ Đoàn
hy sinh oan uổng thật tội nghiệp cho nàng quá. Nếu như sắc vóc của nàng không mấy
tuyệt trần, nên nàng phải thuộc về vua chúa. Nguyễn Hữu Cảnh không dám
"khi quân", kẻ bề tôi biết phục tùng chúa thượng mình tôn thờ một
cách thuần phục. Nhưng chàng nghĩ: Thời buổi loạn lạc, tranh hùng giữa hai
Chúa: Đàng trong và Đàng Ngoài. Đôi khi vì thủ đoạn chính trị nào đó, những người
đàn ông lấy những người phụ nữ ra làm con cờ "thí"...Chúa muốn được
tiếng là "hiền vương" để chiêu mộ dân tình. Hơn ai hết, chàng
biết Đoàn Thị Thừa không được tổ quốc tạt dạ ghi công, không một ai nghĩ rằng
cõi phương Nam sau này có được là khi ấy ba quân tướng sĩ đều được một lòng bên
chúa Nguyễn. Một đằng thì được tiếng thơm lây lất, còn một đằng thì bị người đời
khinh khi...Cả năm buồn thương một người con gái mỹ miều, Nguyễn Hữu Cảnh còn
đón nhận sự mất lớn lao khác nữa. Đó là người cha bất khuất của mình, ông đã chịu
buông gươm sau một cơn bạo bệnh cho hậu thế giữ gìn.
Năm 1681. Nguyễn Hữu Dật
mất tại đạo Lưu Đồn, thọ 78 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng ông là
Chiêu quận công, thuỵ là Cần Tiết. Nhân dân quanh vùng cảm đức độ của ông gọi
ông là Phật Bồ Tát, lập đền thờ ở Xóm Bến, Vạn Xuân (huyện Phong Lộc), gọi là đền
Tĩnh Quốc công.
Nguyễn Hữu Cảnh được cha mình
căn dặn, phải thương ba quân tướng sĩ. Họ phải vì thời cuộc theo phục vụ cho
chúa Nguyễn, nhà cửa bỏ bê và bỏ mặc người thân ở lại. Tuyệt đối không được đối
xử dân tình nơi chiếm đóng tệ hại, họ còn là những người ghi nhận công trạng của
dũng tướng, bia miệng truyền đời đời. Đất được chiếm đóng mà không được lòng
dân, nay mai cũng bị tống khứ đi mà thôi. Người dân là môi trường cho cá bơi lội,
cá không có nước chẳng nào cá bị ngộp rồi chết.
Nguyễn Hữu Cảnh thích giao du với
lính tráng là vậy, thường ngày hay ngồi ngoài bờ biển cùng với lính nhìn ra
khơi xa. Bọn họ nô đùa với sóng biển, níu kéo nhau cho ngộp nước, cố làm cho
chàng vui vẻ hơn. Mấy tên lính ngu si tìm đâu được bộ râu trong tuồng cổ, dài
hơn cả sãi tay mang cho chủ tướng mình để thấy oai phong lẫm lẫm. Chàng là người
hòa đồng với ba quân, không câu nệ chuyện ấy mà còn cố tình làm trò để họ vui.
Chàng đứng lên đẩy cánh tay vuốt bộ râu hết cở, tư thế đằng đằng sát khí, dõng
dạc:
- Ta sống đến năm mươi tuổi là nhiều lắm rồi! Râu ở đâu ra mà dài dữ vậy...Sau
này, ta mất có thờ tụng thì chớ làm quá.
Bọn lính tráng cười ngặt nghẻo, nghe thấy
hợp lý:
- Chủ tướng có nước da cháy đen, mấy người đen ngòm thì lông mao cũng ít.
Thôi, đứa nào làm trò này dở quá...Chơi cái khác đi.
Một thằng nghe vậy thì đứng như nhìn trận
chiến, chỉ ngay vào thằng lính bày trò ra bộ râu mà trách móc:
- Lúc giáp trận, dặn dò hắn âm thầm tiến sát vào chừng ba thước, rồi mới
la to. Chưa chi, hắn hét vang trời làm cho mấy tên địch biết trước...
- Không la không được...- Tên kia thu gom bộ râu trả lời- Ai mà không
rung, la om sòm cho đở sợ.
Nguyễn Hữu Cảnh nghe họ thọc mạch,
nên rất thấu hiểu bọn lính quèn phải thường xuyên giáp mặt sống mái với nhau. Sợ
chết thì ai cũng phải sợ, trách bọn lính thêm phiền muộn:
- Ta chỉ dặn dò các ngươi một điều: Khi chém giết quân thù, cũng phải
bình tâm xem ai là dân thường, đàn bà con mọn không được vung tay đao kiếm vô tội
vạ. Chiến trường tàn khốc xảy ra khi chưa biết nhau, khi giáp trận nhau rồi thì
con người ai cũng như ai thôi. Cả hai đều sợ chết cả, nhưng khi xong chiến trường
mới biết con người là hiền hòa, kẻ địch cũng vậy mà thôi.
Mấy tên lính nghe Nguyễn Hữu Cảnh
nói, nghe trong lời lẻ thực sự rất nhân tâm và tình cảm. Hết sức là cảm động và
càng thấm thía truyền thống thông hiểu dân tình của nhà Nguyễn Hữu.
Tuy Nguyễn Hữu Cảnh được mấy
tên lính cố tình làm cho mình vui, nhưng hình ảnh Thị Thừa cứ lởn vỡn trước mắt
mình, lời hứa mở rộng bờ cõi về đất phương Nam như còn đó và kỷ niệm ngày nào
khó mà phai. Mọi người kháo rằng, Thị Thừa hiện hồn về báo oán, cung tần mỹ nữ
rất sợ nàng và ngay cả chúa Nguyễn Phúc Tần như vẫn còn bị lương tâm cắn rứt.
Hồn ma của Thị Thừa khoắc khoải, thường
hay hiện về khiếu nại: Nàng đòi mình cũng được ngợi ca như tiếng tăm của chúa,
vì cái chết của nàng mới làm cho dân tình được thu phục. Nàng hiện hồn về hỏi
chúa mình tội tình gì, mình yêu người mình yêu sao không cho nàng được toại
nguyện, nàng chết thảm có ích lợi gì cho quốc gia hay không?
Nhắc về chúa Nguyễn Phúc Tần cũng ân
hận việc mình đầu độc nàng. Cho dù, sự việc trôi qua vài năm, cứ lúc nào thảnh
thơi công việc thì chúa lại nhớ đến nàng. Đồng thời lúc này chúa ăn ít hơn, xem
chừng trong người không mấy được khỏe khoắn.
Chúa có hai bà vợ chính, người họ Chu sinh
ra hai trai một gái được phong làm Phúc Diễn quận công, Hiệp quận công Nguyễn
Phúc Thuần, một công chúa là Ngọc Tào. Người còn lại được gọi họ Tống vì ở nơi
xuất xứ là huyện Tống Sơn ở Thanh Hóa và là con của Thiếu phó Tống Phúc Khang,
bà cũng được hai con trai và một người tên là Nguyễn Phúc Thái rất hiền đức,
nên khi có biến cố, người con trai trưởng Nguyễn Phúc Diễn đột ngột qua đời,
thì chúa chọn và phong làm Tả thủy dinh phó tướng Hoằng Ân Hầu tại dinh Tả thủ.
Chúa Nguyễn Phúc Tần gọi đến và căn dặn:
- Ta bình sinh ra vào gian hiễm giữ nhà giữ nước. Con nối nghiệp phải sửa
thêm nhân chính, các quan do ta tin dùng thì cũng phải tin dùng mới mưu nghiệp
mọi bề, đừng để bọn tiểu nhân chen vào đại sự.
Nguyễn Phúc Thái nghe cha, đều tạt dạ
ghi nhớ mồm một từng lời. Thấy phụ thân rời rã cũng đem lòng cảm mến, một thời
mình ngưỡng mộ như một thánh nhân, nên quyết nhận trọng trách và giữ gìn non
sông toàn cõi được yên bề.
Khi đi ra ngoài dinh, thấy các quan
đứng đợi ở ngoài để vào thăm bệnh tình của chúa. Nguyễn Phúc Thái không cầm
lòng được nữa mà òa khóc, đi vội về Tả dinh- Nơi mình còn phải bận bịu nhiệm vụ
canh phòng, đúng là một người sau làm chúa ắt phải được lòng người rồi. Các
quan nhìn theo, tấm tắc khen ngợi tựa như không thể không khen. Chắc là, chúa
Nguyễn Phúc Tần bệnh tình đang nguy cấp lắm, nên họ nóng lòng vội vã cố vào chầu.
Chúa Nguyễn Phúc Tần nổi tiếng
là người có thể chất khỏe mạnh, vừa ngồi lên thì thấy mấy quan ùn ùn kéo vào
như mếu máo:
- Bẫm lạy chúa công, Các quan đại thần đang muốn biết sự thể...Chúa công
đừng vội vã bỏ các quan trong triều mà đi vội.
Chúa Nguyễn Phúc Tần ngạc nhiên, bổng
hiểu cớ sự:
- Chưa đâu...Ta còn khỏe sờ sờ đây thôi. Chỉ vì muốn lúc còn sáng suốt dặn
dò Hoằng Ân Hầu vài lời vậy thôi, Phúc Thái là người hay cảm động làm cho các
quan hiểu nhầm chứ ta có bề gì đâu.
Các quan được cho phép bình thân và nhìn sắc
mặt chúa kỹ lưởng, rõ ràng là chúa còn khỏe sờ sờ ra đó. Các quan nào nước mắt
lã chã, thì cảm thấy sự quá đáng của mình có khi bị bay đầu, ông nào nước mắt
lưng tròng cũng có khi mất chức chứ chẳng phải đùa. Vậy mà làm các quan luýnh
quýnh vội suy tôn Tả dinh, không khéo là mang tội khi quân, trù ẻo chúa chết sớm.
Thế nhưng, chúa cũng muốn có vài lời dặn dò.
Chúa thừa biết bệnh tình trong người, sẵn dịp thì nói luôn:
- Ta với các khanh một chí hướng với nhau mà công việc mưu đồ chưa trọn. Nay
con ta còn nhỏ tuổi, mong chờ các khanh giúp đỡ cho công việc của tổ tông rõ
ràng. Đừng quên lời ấy.
Các quan đại diện thề thốt, rồi quày quả ra
ngoài để chúa nghỉ ngơi.
Khi còn lại một mình, chúa dễ mắc phải chứng trầm
uất buồn thương Thị Thừa. Bước tới lui cảm giác như có ai đó đi sau lưng mình,
Thị Thừa như vẫn còn đang phục vụ chúa. Chúa vẫn chưa quen được sự thiếu vắng
nàng, mặc dù biết là giết nàng cũng có cái lý của nó nhưng vì đại nghĩa mà ra
trò xử trảm thì chúa thấy thiếu đi tình người. Phải chi, chúa đày ải nàng đi
đâu đó xa thành đô Thuận Hóa, thì mình khỏi phải ân hận hơn nhiều.
Rõ ràng, lúc bấy chúa Nguyễn Phúc Tần ăn uống
không còn ngon miệng như trước nữa. Cái chung, con người ta sống vì đại nghĩa,
vì non sông gấm vóc nhưng cái riêng người đàn ông phải có một vẻ đẹp yêu kiều để
mình ôm ấp. Bản chất của một đấng anh hùng là để tạo dựng một giống nòi, trước
sau gì cũng cần một thế hệ tiếp bước và đấng tạo dáng anh hùng cũng là để tìm
cho mình một mỹ nhân. Trong tâm thì suy nghĩ thế, nhưng nói ra thì mọi người sẽ
phản bác (dù mình là chúa thượng). Cho nên giử kẻ nhưng trong lòng bao giờ cũng
nghe buồn tênh.
Chúa vẫn được nhiều người chiều chuộng, cung phụng.
Nhưng những người con gái khác không có mùi vị như Thị thừa, mỗi lần qua đêm vẫn
còn thấy hụt hẫng thiếu thốn. Có lẻ tuổi về già, thói quen ham thích đàn bà do
trời ép buộc ở một giống đực, sự truyền giống là do tự nhiên thúc đẩy quá trình
ấy chứ người quân tử rõ ràng hiểu rằng sử sự quá đáng thì mình dần đến một sự
mòn mỏi và sẽ mau chết hơn. Thế nhưng, tự nhiên cũng đem cái sự khoái cảm ghi
nhận sâu xa vào tim óc và cơ bắp con người rồi, không dụng đến cung tần mĩ nữ
thì y như rằng mình rất cau có, khó khăn và đôi khi còn hung hăng nữa. Chúa thì
lại muốn dân tình xem mình là Hiền Vương, thì thôi chấp nhận việc đêm đêm có
người bên mình để còn ngủ say giấc nồng, còn hơn là trằn trọc cân nhắc sức khỏe
có tốt không hoài, tiếng gà gáy sáng vang lên thì cũng là một đêm thức trắng. Cứ
như vậy hoài thì cũng thân thể của một người đáng đinh cũng hao mòn, vậy nên
chúa chọn giấc ngủ say hơn là phải trằn trọc. Thế nhưng, những cung tần mỹ nữ
rõ ràng không mấy ai được như Thị Thừa.
Có thề cũng là do tuổi tác về
chiều, sức người có hạn..v..v. Chết là một việc giờ này chúa thường nghĩ suy,
rõ ràng là tự nhiên tạo ra cái chết là để chọn lọc giống nòi khỏe mạnh. Mấy phi
có mang đều không sinh ra mấy đứa trẻ khỏe mạnh, chúng chết yểu hết. Nếu một
người cứ sống đã quen với đêm hôm ân ái rồi ngủ mới được, truyền giống nòi
không mấy mạnh khỏe thì thôi mình băng hà cũng đáng.
Tựa như so đo mọi điều hơn thiệt, chúa thấy
mình cũng phải tới lúc rồi.
Tuy vậy, mãi đến 30/4/ 1687. Chúa
Nguyễn Phúc Tần mới băng hà, tuổi thọ 68. Sau này, được suy tôn làm Thái Tông
Hiếu Triết Hoàng Đế.
Theo quy định từ trước tới nay, khi chúa mất thì người
già trẻ và con nít cũng phải ngồi trước cửa khóc lóc, kêu gào thảm thiết. Ai
làm ra đau khổ nhiều chừng nào, bỏ cả việc đồng áng ruộng vườn thì càng được
coi là người kính trọng chúa.
Việc đó kéo dài nhiều năm, nên
khi thu thuế khóa bắt đầu thấy có khó khăn. Có mấy tay đàn ông lười biếng hay lợi
dụng tình thế đó, bày trò nhậu nhẹt rồi nằm dài ra nhà. Quân lính của Nguyễn Hữu
Cảnh đi ngang thấy vậy vào hỏi thuế thì họ hoảng sợ khóc rống, nói là nhớ
thương khóc chúa thượng vừa mất nên không làm lụng ra được nhiều thóc. Họ chỉ cần
làm bộ khóc la, đập đầu xuống đất là xong.
Lính tráng của Nguyễn Hữu Cảnh
về báo lại cho Chưởng dinh - Lúc này Nguyễn Hữu Cảnh được phong chức Chưởng
Dinh thay Nguyễn Phúc Kiều. Chúa mới có lần thắc mắc về chuyện của Thị Thừa,
nhưng nể trọng vua cha mà chỉ cách chức Nguyễn Phúc Kiều, lý do đưa ra là tuổi
già sức yếu. Nguyễn Hữu Cảnh có phần nào hiểu rõ nội tình nên liền tâu trình với
chúa biết:
- Xem chừng phong tục lạc hậu, ảnh hưởng đến tinh thần làm ăn của dân
tình. Chúa thượng anh minh nên hãy xét đoán lại luật đã định trước đây, kẻo nước
nhà không được mấy thịnh vượng.
Lúc ấy, không phải ai cũng hiểu
như ai. Việc tâu trình ấy có thể ảnh hưởng uy danh và sự nghiệp của một người
làm tướng cho nhà chúa. Nếu là một người chúa thiếu sáng suốt, không biết nghe
theo lời hay, ý phải, dễ lầm lẫn việc phá bỏ tang chế là không tôn thờ chúa cũ,
có thể bị cho là kẻ xấu xa.
May thay: " Chúa Nguyễn Phúc
Thái là người nổi tiếng rộng rãi, giảm nhẹ hình phạt, thuế khóa, trọng dụng
quan lại cũ, trăm họ đều vui mừng. Chúa quy định lại việc để tang ba năm; cai đội
trở lên để tang hai tuần; Nội ngoại đội trưởng, văn chức, câu kê để tang đến giỗ
đầu; còn quân dân để tang đến rằm tháng bảy (Tết Trung Nguyên)"-( Trích
trong sử).
- Ngươi không nhắc ta, tình huống này ắt quân Trịnh lợi dụng- Chúa khen
ngợi Nguyễn Hữu Cảnh vô cùng.
Chúa mới còn nổi tiếng về hiếu
nghĩa, nhưng rõ ràng chuyện gì cũng có mặt trái của nó. Mới vừa giải quyết chuyện
tang chế xong, thì chúa gặp cảnh chéo ngoe khác. Các cung tần mỹ nữ của vua cha
và các quan thần bậc cao đang đồn trú quanh dinh, lúc còn hàn vi ra vào phải
thưa trình và được mọi người tâng tiu nên mới được tiếng tốt để lên làm chúa.
Giờ trở thành Chúa Thượng, thói quen cúi chào sớm phải bỏ đi và ngược lại thì
những người khác phải quỳ lạy mình, sớm chiều khó mà thay đổi được. Nếu cứ căng
theo luật định, mặt nghễnh cao đầu, mẫu hậu và mấy người phi tần của vua cha sử
xự sao đây. Lúc còn là Tả Dinh thường hay nghe mấy người phi than rằng hay gặp
ma Thị Thừa hiện về. Nay vua cha vừa mất, thì họ còn đồn thổi thêm nhiều điều
buồn phiền khác nữa. Còn nhà công vụ đã cấp, giờ lấy lại cũng khó khăn...Rồi
còn phải cấp nhà mới cho các quan thần khác nữa. Lại thêm, con sông Kim Long
càng thêm uốn khúc, thỉnh thoảng lũ từ thượng nguồn kéo về gây ngập lụt tới nền
dinh. Chi bằng mình dời đô đi, xem chừng chu tất mọi bề.
Từ Kim Long, chúa Nguyễn Phúc
Thái dời đô về Phú Xuân. Chúa mới để dành nơi cũ thờ vua cha, còn mình thì ra sức
thiết lập nơi đóng dinh mới:
- Ta lấy phủ cũ làm miếu Thái Tông, dời dựng phủ mới sang Phú Xuân, lấy
núi Ngự Bình phía trước làm tiền án, đắp tường thành, xây cung điện, trước mặt
đào hồ lớn, trồng hoa quả cây cối, tráng lệ nhưng phải hài hòa với thiên nhiên.
Còn con sông kia nước xói mòn phía hữu, hãy xây tháp thờ ở bờ sông để trấn
áp".
Các quan thần giỏi về Dịch Lý và thuật
phong thủy thay phiên nhau trỗ tài, họ cố gắng chúa nghe ý mình để lập công trạng.
Người cho là nơi mới "thực là một nơi đô hội vạn vật thanh dung lừng lẫy,
đời trước chưa từng có".
Sau này, nhiều người còn khen ngợi là:
"Đất bằng phẳng như bàn tay, rộng hơn mười dặm, ở giữa là chính dinh, đất
cao còn bốn bên đều thấp, tức là chỗ nổi bật ở giữa đất bằng, ở vị trí tây bắc
trông về hướng đông nam, dựa ngang sống đất, trông xuống bến sông, đằng trước
là quân sơn chầu la liệt, là nơi "có năm lần hổ thủy ôm đằng trước...có ba
lần long sa ngăn bên tả"
Chúa nghe họ ca cẩm quá, bực mình nói:
- Thực ra ta sợ con ma Thị Thừa mà thôi...Các quan thần nói quá...Xây ở
đâu đất cao bằng phẳng là được rồi.
Sau khi vẽ được kiểu cách dinh thành mới,
chúa đích thân xem xét bảng thiết kế. Chúa có thói quen viết từ phải sang trái
nhưng để giấy nghiên nghiên cho dễ thấy, mấy quan triều thần không dám nói gì,
cũng cho là chúa muốn thành hướng về hướng đó. Cho nên, mặt thành hướng về Nam
(thuở ấy được xem là hướng tốt ) và bị lệch sang đông (khoảng 43 độ) một chút.
Họ mở sách phong thủy ra phán xét, rằng chúa thật là minh quân: "phù hợp với
dịch lý và phong thủy hết sức".
- Xem ra hướng ấy, sẽ mở rộng đất đai về phương Nam cho mà coi...
- Thì chờ đấy, biết đâu được...
Các quan tán dương mọi điều chúa làm, thế
là kinh thành đang được thi công.
Đây xin nhắc về Dương Ngạn Địch tha phương cầu thực
nơi đất khách quê người tại vùng đất Mỹ Tho. Nơi đây đã có nhiều người Khmer
sinh sống, họ gọi nơi đây là "Meso", ví như là cô gái đẹp như nàng
tiên. Dương Ngạn Địch cho người nhà hòa mình chung với vài nhóm người Việt, ông
cho xây dựng nhiều trường học (có đến chín trường là: Cảnh Dương, Duy Hóa, Bả cạnh,
Gian Thảo, Hoàng Lạp, Quy Ang, Tam Lạch, Tân Thạnh, Thiên Mụ). Nhiều người khai
khẩn ruộng đất, thành lập làng xóm nằm cạnh kề nhau, chỉ dạy nhiều người hành
nghề thủ công mỹ nghệ. Họ sang cả mảnh đất nằm giữa sông đang hình thành từ phù
sa sông Tiền, đó là vùng đất sau này gọi là cù lao An Hóa- Bến Tre. Mọi người gọi
nhóm người của Dương Ngạn Địch là Minh Hương, là một trong số những người Hoa sớm
nhất trên đất Chăm pa. Phụ nữ biết nuôi tằm, dệt vải và nhất là biết dùng phục
sức xa xỉ thơm lừng. Tất cả mọi người đều chung xóm ấp, không tách biệt và
chuyên chú làm ăn và nộp thuế cho chúa Nguyễn, chứ không giao về vua Nặc nộn.
Không phân biệt chủng tộc
nào, Dương Ngạn Địch chú trọng đến thương mãi, song song với những cách làm
trang trại và mở rộng giao thương với bên ngoài, nhất là với chúa Nguyễn. Vì ở
đó, vẫn luôn dùng chữ Hán và phần nào có trình tự thờ cúng tổ tiên giống nhau.
Tuy khí hậu ở Mỹ Tho và cù lao An Hóa gió mưa thuận hòa phù sa màu mỡ, nhưng ở
đấy còn là vùng rừng rậm đầy ác thú. Ông dẫn một nhóm người đi tìm một con cọp
già thường vào làng bắt trẻ nhỏ, nhưng mấy lần đều không tìm thấy. Vợ ông cũng
là người giỏi võ nghệ, nóng lòng đòi theo chồng. Dương Ngạn Địch không đồng
tình, nhưng bà lén lút dẫn đầu một tốp trai tráng hướng sang bờ sông bên kia
mang về con cọp đã chết. Ông giận run người, mang ra một khúc cây để phang vào
bà. Mọi người né tránh, bà chụp cái cây hết sức tài tình rồi để xuống đất, đợi
khi chồng nguôi giận. Bà giảng nghĩa cho ông nghe là vì muốn cho muôn dân yên ổn
và muốn con cọp già ấy đừng hại đám trẻ nhỏ nữa.
Người Việt cùng với người Minh Hương
sinh sống ở Mỹ Tho rất hòa thuận, làm cho nơi đây trở thành một trung tâm buôn
bán khá là sầm uất. Nông sản thường gồm lúa gạo và cau thường dư giả nên trở
thành thứ hàng hóa đặc sản cho cả miền Trong: "Nơi đây, có nhà ngói cột chạm,
đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc, làm thành
một chốn đại đô hội, rất phồn hoa, huyên náo". Nơi đây còn nằm ở ngả ba
sông, Mỹ Tho nên ghe thuyền lan tỏ khắp nơi nơi: Miền tây bao gồm Cai Lậy, Sa
đéc, rồi sang cả Nam vang ; hoặc ra cửa Tiểu theo đường biển ra tận Phú Xuân-
Thuận Hóa. Hoặc tìm về Mang Khảm (Hà Tiên) nơi Mạc Cửu ( sang năm 1671) kiểm
soát, rồi cùng nơi đây giao thương buôn bán với người Khmer.
Sau chín năm hòa
nguyện vào vùng đất mới, Dương Ngạn Định bị phó tướng là Hoàng Tiến ganh ghét.
Thế rồi, trong một đêm không trăng ông bị ám sát chết ở cửa biển Mỹ Tho.
Tiếm quyền xong,
Hoàng Tiến tự xưng là " Phấn dũng oai tướng quân" cho quân mình đi cướp
phá người Chân Lạp tứ tung. Người Chân Lạp hiền lành vô cùng khổ sở, tưởng rằng
chúa Nguyễn Phúc Thái ngầm xui lấy cớ xâm chiếm, bèn không triều cống như trước
nữa, rồi đắp lũy Bích Đôi và Nam Vang cố thủ. Còn ngăn sông cấm chợ không cho
buôn bán với người của chúa Nguyễn nữa, làm chúa Nguyễn nổi giận và sai Mai Vạn
Long tiến quân quân vào vùng đất Mỹ Tho.
Vua Nặc Nộn ở đất Sài
Gòn nói rõ để Mai Vạn Long hiểu rõ được sự tình, biết Hoàng Tiến gây ra cớ sự
nhưng vẫn làm bộ hiệp quân để loại trừ hắn. Quả nhiên Hoàng Tiến xuống thuyền hội
quân, liền cho quân phục kích, rồi vào lũy bắt được cả người nhà hắn, trấn an
dân chúng.
Sau khi bình ổn ở
vùng đất Mỹ Tho, Mai Vạn Long cùng Trần Thượng Xuyên ở Trấn Biên (Biên Hòa) quản
lảnh ba quân làm tiên phong tìm đánh Nặc Thu đến khi thần phục.
Chiêm Thành vẫn
triều cống hằng năm, Chân Lạp giờ đã thần phục. Nhưng chúa Nguyễn Phúc Thái vẫn
trang bị cho lính tráng súng ống, y phục quần ngắn bằng thao trắng nón chóp
lông trông rực rỡ và trả lương cho họ. Trong phủ có hơn bốn trăm người và ngựa,
thao diễn hằng ngày, còn thuyền chiến thì to lớn neo đậu được cả dưới dòng sông
Hương.
Thế nhưng, việc xây dựng dinh
thự mới làm chúa Nguyễn Phúc Thái quá tổn hao sức lực, chúa thường hay trằn trọc
với các bản vẽ thiết kế, không mấy tin theo phong thủy (có lẻ vì thế mà trả
giá?).
Đến mùa xuân năm
1691, chúa đau nặng và biết mình khó qua. Ngài cho gọi Nguyễn Phúc Chu mà dặn
dò:
- Ta nối nghiệp trước để lại, thường lấy làm lo, phải giữ thánh đức của tổ
tông. Trong đời của ta trị vì, dân chúng được sống trong cảnh thanh bình, an cư
lạc nghiệp. Bây giờ con nối theo, đó là hiếu...
Cuối cùng dinh lũy xây dựng
xong, cũng là lúc chúa qua đời thọ chỉ bốn mươi ba tuổi. Làm chúa chỉ được
bốn năm, chúa Hiếu Nghĩa được suy tôn miếu hiệu là Đức Anh Tông Hiếu Nghĩa
Hoàng Đế.
Nguyễn Phúc Chu là người kế nghiệp, chỉ mới mười bảy
tuổi. Đó là người văn hay chữ tốt, được nuôi ăn học cẩn thận đủ tài văn võ, hay
ăn chay niệm Phật và lấy hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân, còn được gọi là Quốc Chú
Minh Vương. Chúa cho xây một loạt chùa chiền, riêng chùa Thiên Mụ và chùa Mỹ Am
thường mở nhiều hội lớn.
Sau khi lên ngôi chúa chưa yên
vị, vua Kế Bà Tranh của nước Chiêm Thành không tiến cống, mà còn thường mang
quân sát hại dân Việt tới tận Nha Trang. Chúa rất yêu thương dòng họ Nguyễn Hữu,
nên đặt niềm tin vào Nguyễn Hữu Cảnh rất nhiều. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong Nguyễn
Hữu Cảnh làm Thống Suất hành quân vào miền trong để tìm đánh quân Chiêm Thành.
Đời người chín chắn nhất từ quảng bốn mươi
đến năm mươi, Nguyễn Hữu Cảnh giờ đã bốn mươi hai và là người rất ôn hòa. Lúc
can gián, lúc hăng hái, lúc cần không nói gì đều hành động phải lẻ. Giờ chàng dồn
hết tâm sức giành cho nước Việt và yêu thương dân lành như con. Khi chúa phong
cho mình chức Thống lĩnh. Nguyễn Hữu Cảnh rất ý thức trọng trách mình được giao
phó và lần này chàng quyết vào nước Chiêm đánh bắt cho được vua Chiêm Thành
giao nộp cho chúa công.
Người ngựa hành quân vào đất Ninh Thuận,
Nguyễn Hữu Cảnh cảm thấy thương xót cho một đất nước giờ chỉ còn lại hai phủ,
mà trước từng là đế quốc xâm lược Ăngkor hùng mạnh. Giờ chàng đang chuẩn bị đối
đầu với nhà vua nước ấy, nhưng lực lượng không còn bao nhiêu, sớm chiều ắt
không còn giữ được. Tuy thương xót nhưng trên chiến tuyến khó mà nương tay, vua
Kế Bà Tranh thường mang quân quấy nhiễu. Giờ chàng nhận lệnh phải trừng trị,
làm tướng thì chàng phải trung thành với chúa thượng mình.
Một nhánh quân khác do tham mưu Nguyễn Đình
Quang theo đường biển, ghé vào đổ quân ở mũi Né. Phó tướng bắt đầu khiêu chiến
từ biển, đánh rát từ biển đông vào. Vua Kế Bà Tranh sớm vội rút lui lên miền rừng
núi Đơn Dương, nhưng Nguyễn Hữu Cảnh đã chia quân phục kích ở đó từ lâu rồi.
Chàng không cho quân lính giết vua Chiêm Thành, quyết bắt sống như mong muốn
ban đầu.
Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh tài
nghệ bắt được vua Bà Tranh đem về Phú Xuân để chúa trị tội, chiếm được đất Bình
Thuận nhưng vẫn giao cho em trai của Bà Tranh là Kế Bà Tử làm đề đốc trấn giữ,
bắt dân chúng mặc y phục người Việt để dần cải hóa họ.
Nước Chiêm Thành chỉ còn hai Trấn nhỏ
bé, biết sớm muộn cũng thuộc về người Việt. A Bân thuộc nhóm người Thanh dấy loạn,
xúi dục dân Champa quấy rối sự cai trị của Chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Cảnh lại phải
vào đất Ninh Thuận và lần này đặt phủ Bình thuận ở Phan Rang, Phan Rí.
Lúc bấy giờ cũng ở phía trong, vua Nặc
Thu nước Chân Lạp cho rằng vua Nặc Nộn ở Gia định đã đầu hàng chúa Nguyễn
giờ họ muốn đòi đất lại. Chúa Nguyễn Phúc Chu muốn Nguyễn Hữu Cảnh đến xứ Đồng
Nai đặt Đại Bản Doanh nơi đó, phòng khi có loạn thì trấn áp kịp lúc. Nguyễn hữu
Cảnh nhận lệnh và theo đường biển ngược dòng Đồng Nai, đến Cù Lao Phố.
Trần Thượng Xuyên đã tạo dựng nơi
đây thành một thương cảng sầm uất, dù là một người hướng đến chính trị hơn
Dương Ngạn Địch nhưng dù sao Nguyễn Hữu Cảnh cũng muốn thuyết phục ông ta cho
dân Việt vào đây cùng mưu sinh với người Minh hương và Khmer.
Hai người dạo bước qua những
con đường làm gốm sứ, Nguyễn Hữu Cảnh tâm tình:
- Sẳn dịp, ta đặt Bản doanh ở đây rất muốn Trấn Biên để người Việt cùng khai khẩn.
Trần Thượng Xuyên không dám
trái lời, đồng tình:
- Đất nơi đây còn nhiều vùng còn hoang hóa, khai khẩn đất hoang để hung
thú không còn nơi quấy nhiễu.
- Ta cũng có ý muốn để dân Việt học hỏi nghề người Minh Hương, cùng tạo dựng
làng ấp để trông chừng giặc giã từ phía Tây.
Khi đặt bản doanh ở Cù Lao Phố, Nguyễn Hữu
Cảnh cho Nguyễn Hữu Tín về Bố Chính nơi quê nhà, kêu gọi mọi người vào Nam để
khai khẩn vùng đất Biên Hòa còn hoang hóa. Lúc bấy giờ, việc khai khẩn vùng đất
mới là một xu hướng. Cho nên, mọi người ùn ùn vào Nam, để tìm nơi đất mới lập
nghiệp. Câu nói : "An cư lập nghiệp" cũng bắt đầu từ đây.
Một người Bắc Bố Chính, bị đem đến chỗ
quan Thống Suất. Mọi người nói rằng người này sống ở đất Đàng Ngoài, theo vào ắt
có mưu lược từ quân Trịnh. Nguyễn Hữu Cảnh nhớ lại chuyện của Thị thừa, nên
không thể qui tội oan cho người đó mà phán rằng:
- Ở đây đất đai còn hoang hóa mênh mông, nhưng toàn là sình lầy rừng rậm.
Nhân lực vẫn còn yếu kém, chi bằng ngươi hiểm nghèo, khai phá nơi khác mà tránh
được nghi ngờ.
Bố Chính dù sao cũng là quê hương mình , nên người
ở đấy được chiêu dụ vào. Lễ Thành Hầu không nỡ đối đối xử phân biệt, nhất là
nơi đất khách làm họ bị chơi vơi. Nhiệm vụ của mình là bảo vệ cho dân tình thế
thái an nhàn.
Buổi ban đầu người Việt
tự phát, thiếu tính rạch ròi mạnh ai nấy sống. Thế nhưng phía trước còn nhiều
gian nan thử thách, cần người gan dạ xông pha vào nơi hoang vu. Từ đấy, Nguyễn
Hữu Cảnh hoạch định cương giới xóm làng, ổn định dân sinh. Xứ Đồng Nai giờ trở
hành huyện Phước Long, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn.
Nguyễn Hữu Tín, cùng với Nguyễn Hữu Hào
cùng vào cai quản. Tất cả dân số người Minh Hương đều nhập sổ bộ Đại Việt. Giờ
họ không còn luộm thuộm, nhuếch nhác mà có qui cũ đâu vào đấy, có xã làng Thanh
Hà và Minh hương dành cho họ.
Lúc bấy giờ, hoàng tộc nước Chân Lạp vẫn
luôn tranh chấp quyền bính. Họ còn sợ người Việt tiến chiếm các vùng đất phía
Tây. Năm 1699, vua Nặc Thu đem quân tiến công Đại Việt. Chúa Nguyễn lại sai
Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, cùng với phó tướng Phạm Cẩm Long, tham tướng
Nguyễn Hữu Khánh, cùng hợp quân với Trần Thượng xuyên, dùng thuyền chiến đi
theo đường sông đánh thẳng đến thành La Bích (Nam vang), đánh quân Nặc Thu tan
tác.
Sau khi vua Chân Lạp qui hàng, Nguyễn
Hữu Cảnh trở về ghé thăm mọi nơi có người Việt sinh sống. Nguyễn Hữu Cảnh kéo
quân tới đâu được dân chúng ủng hộ lính tráng của mình tới đó, đồng thời khích
lệ dân chúng Hoa, Việt, Khmer giữ gìn tinh thần đùm bọc, thân thiện, yêu thương
nhau như người một nhà. Nguyễn Hữu Cảnh làm cho người dân thực lòng yêu mến.
Đang trên đường trở về thành Gia Định,
tháng 4 năm 1700 đến Châu Sao Mộc ông mở tiệc để khuyến lạo binh lính, uống rượu
quá đà rồi bị thổ huyết, gấp rút đưa về đến Mỹ Tho thì mất. Quan Tài tiếp tục
mang về Trấn Biên để cho hai anh em trông coi, chúa Nguyễn Phúc Chu thương tiếc
sắc tặng là Hiệp Tán Công Thần, thọ 50 tuổi.
Có một bài thơ truyền tụng
công đức Nguyễn Hữu Cảnh còn truyền tụng tới nay:
Từ ngày vâng lịnh Trấn Bình Khương,
Bờ cõi mở thêm mấy dặm trường,
Vun bón cột nền nơi tổ phụ
Dãi dầu tên đạn giúp quân vương
Giặc ngoài vừa nép bên màn hổ
Sao tướng liền sa giữa giọt tương! |
đăng 19:09 17 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
Đoàn Công Uẩn- một mãnh tướng thời Lê Cập nhật: Thứ năm, 7/4/2011 | 9:58:40 AM Ở Thụy Trình, huyện Thái Thụy có một ngôi mộ cổ và dấu tích một con đường mang tên "Ngô Lột" gắn với những kỳ tích giúp dân diệt giặc Minh xâm lược của của ông tổ họ Đoàn là Đoàn Công Uẩn, một mãnh tướng thời Lê. Hẳn gia thế, sự nghiệp mãnh tướng Đoàn Công Uẩn đến nay vẫn chưa được nhiều người biết đến... Từ đường họ Đoàn tại thôn Thượng, Thụy Trình. |
Đời Trần Thuận Tông ( 1388 - 1398 ) có người tên là Đoàn Phúc Lanh (ở huyện Từ Liêm, Hà Nội) được giao chức huyện lệnh huyện Trường Tân, Phủ Tân An ( Tứ Kỳ, Hải Dương ). Vua lấy công điền làng Quảng Nạp (Thụy Trình ngày nay) ban cho thực ấp. Năm Canh Thìn ( 1.400 ), Hồ Quí Ly lấy ngôi vua Trần Thiếu Đế. Hoàng thất nhà Trần dấy binh định một phen giành lại vương triều. Phò mã đô uý Vũ Uy và phò mã Phùng Thế Kỳ đưa tất cả con em, thân quyến và nhân mục về Tô Xuyên lập căn cứ chống nhà Hồ nhưng đại sự không thành. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, Hưng nghĩa hầu Vũ Uy vào Lam Sơn giúp Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh, tướng quân Phùng Thế Kỳ và huyện lệnh Đoàn Phúc Lanh ở lại phủ nhà tiếp tục chống quân xâm lược nhà Minh. Trong 20 năm anh dũng kiên cường đánh giặc ( 1407 - 1427 ), đất Thái Bình đã nhiều người đã trở thành danh tướng, danh thần, tên tuổi ghi trong sử sách như: Đinh Lan, Đinh Lễ, Đinh Liệt, Đinh Bồ, Vũ Uy, Bùi Quốc Hưng... Thế nhưng, có một chàng trai chưa ghi trong quốc sử nhưng được hậu thế đời đời kể chuyện như tấm gương trung liệt, nêu gương cho các thế hệ noi theo. Đó là con trai huyện lệnh Đoàn Phúc Lanh, tên là Đoàn Công Uẩn (Đoàn Uẩn) từ tuổi 18, 19 đã nuôi chí đánh giặc. Trong sách : "Thái Thụy vùng ven biển" có chép :" Thủa giặc Minh xâm lược nước ta, người con trai họ Đoàn tên là Đoàn Công Uẩn mới ngoài 20 tuổi, căm thù giặc tàn sát dân lành, chàng cùng một số trai làng ban ngày ẩn trốn, ban đêm tìm mưu giết giặc. Một hôm chàng nghĩ ra kế khuyên dân làng lấy cói biển đập dập, đan thành bao bì để ban đêm chui vào đó nằm cho khỏi muỗi. Giặc Minh thấy thế bắt dân làng đan thật nhiều bao cói nộp cho chúng để tránh muỗi. Khi các đồn giặc đã bắt đầu dùng bao cói, Đoàn Công Uẩn tổ chức một đội dân binh, ban đêm đột nhập vào đồn giặc, lấy dao đâm chết từng tên nằm trong bao, rồi bí mật rút ra. Bọn giặc bị chết nhiều hoảng sợ, chúng ra sức truy nã người con trai họ Đoàn. Một đêm, sau khi giết được mấy chục tên giặc, chàng trai họ Đoàn bị chúng mai phục, bắt được. Giặc tra tấn thế nào chàng cũng không chịu cung khai, cuối cùng chúng đã giết chàng bằng cách lột xác chàng tại một con đường". Ngày nay, con đường đó vẫn còn dấu tích dân làng đặt tên "con đường Ngô Lột" ( dân ta gọi giặc Minh xâm lược là quân Ngô). 
Ngôi mộ của tướng quân Đoàn Công Uẩn (Thụy Trình) Phần mộ táng của chàng trai họ Đoàn nằm ở ngay cạnh "con đường Ngô Lột" vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Năm 1992, dòng họ Đoàn ở Thụy Trình đã tổ chức trùng tu, tôn tạo ngôi mộ để bảo quản, thờ cúng lâu dài. Tấm gương anh dũng của chàng trai họ Đoàn làng Quảng Nạp được vua Lê Cảnh Hưng tuyên dương bằng những chữ vàng có ghi trong sắc phong Cảnh Hưng năm thứ 18 : "Mãnh tướng dũng liệt, phù tộ, triệu mưu, tả bộ, cương nghị, quả đoán, đốc bật hồng tục, khoan nhân, trợ thắng, thành công ". Các vua triều sau đều "giao cho dân Quảng Nạp tổng, Quảng Nạp xã tòng tiền phụng sự Mãnh tướng quan Đoàn Uẩn". Biết ơn công lao to lớn, giúp dân diệt giặc cứu nước của tướng quân Đoàn Công Uẩn, dân làng đã tôn ông là Thần Hoàng thờ tại Đình Bắc (thôn Bắc, Thụy Trình). Tưởng niệm quan huyện lệnh Đoàn Văn Lanh và Đoàn Mãnh tướng quân, ngay từ thời Lê, con cháu họ Đoàn đã xây dựng nhà thờ để cùng phối thờ liệt tổ, đến đời Thành Thái năm thứ 15 tiến hành trùng tu lại. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, từ đường là nơi tập trung tuần phòng trị an của đội Tự vệ bí mật. Sau cách mạng tháng Tám, từ đường là trụ sở của Huyện uỷ Thụy Anh làm căn cứ mở lớp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin cho cán bộ cấp huyện mấy tháng liền. Khi cơ quan của huyện Thuỵ Anh rút đi, cơ quan Hải Kiến ( Hải Phòng) đến sơ tán lấy từ đường làm nơi huấn luyện cán bộ hoạt động bí mật. Năm 1957, từ đường là trụ sở học tập của đội cải cách và giảm tô. Hiện nay, ngôi từ đường cổ kính rộng lớn hình chữ đinh, 3 gian tiền tế, 3 gian hậu cung này vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn tại thôn Thượng, làng Quảng Nạp, được nhân dân trong vùng xếp vào hàng anh cả trong hương đẳng thời xưa. Trong từ đường còn nguyên các cột quân, cột cái, đồ thờ bằng gỗ, bát biển, nhang án, chấp kính cổ quý giá. Gia tộc họ Đoàn đang hoàn thiện các hồ sơ, thủ tục đề nghị công nhận từ đường dòng họ là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh. Hàng năm, cứ vào ngày giỗ Tổ mùng 1 tháng Chạp và ngày 11 tháng Giêng, cả họ quây quần họp mặt tại từ đường báo công với tổ tiên và nhắc nhở, giáo dục con cháu cố gắng vươn lên học tập, lao động, sống xứng đáng với truyền thống của cha ông. Đức Kha |
đăng 00:59 15 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
Posted on 18/07/2009 by tuanxipo 40 năm trước cậu bé Đoàn Nguyên Đức hàng ngày chăn trâu trên cánh đồng bên cạnh sân bay Phù Cát, tỉnh Bình Định quê hương, ước mơ một ngày nào đó sẽ được cưỡi và tậu cho mình một máy bay riêng. Ước mơ tưởng như viển vông đó nay đã thành hiện thực.Ở phố núi, chẳng ai gọi ông Chủ tịch Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai, Tổng giám đốc kiêm Chủ tịch Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Group) bằng cái tên cúng cơm Đoàn Nguyên Đức, mà là Ba Đức vì cái tên này đã trở nên gần gũi, thân quen với mọi người.
Từ năm 2001 đến nay, cái tên Ba Đức càng nổi như cồn sau những sự kiện làm nên các “ tít” lớn trên hầu hết các báo Việt Nam và cả trên thế giới như: việc ông mua chân sút số một Đông Nam Á Kiatisak và trả lương đến 15.000 USD một tháng vào năm 2002; hợp tác với CLB bóng đá nổi tiếng của Anh Arsernal để mở Học viện bóng đá HAGL Arsenal JMG vào năm 2007… Đầu năm 2008 ông còn định mua 20% cổ phần của CLB Arsenal. Và gần đây nhất là ông đã tậu cho mình một chiếc máy bay riêng (Beechcraft King Air 350, trị giá 7,5 triệu USD) như điều mà ông từng mơ ước 40 năm về trước. Điều đặc biệt là ông tậu chiếc máy bay này từ tiền túi cá nhân để phục vụ công việc chung của Tập đoàn. Bước ngoặt để Đoàn Nguyên Đức trở thành thương gia là khi ông 22 tuổi sau 4 lần thi đại học không thành. Bầu Đức kể lại rằng: “Chính vì thi rớt đại học, tôi lại thành đạt như bây giờ. Tôi có đọc cuốn sách viết về 100 tỷ phú thế giới, thấy có ai học đại học được đâu. Ông trùm máy tính của thế giới là Bill Gates giỏi lắm cũng mới học nửa chừng năm thứ hai của Đại học Harvard rồi bỏ học. Riêng tôi lại rất thích câu nói: “Trường đại học của tôi chính là trường đời”. Khởi đầu sự nghiệp của ông Đức chỉ là việc trực tiếp điều hành một phân xưởng nhỏ, chuyên đóng bàn ghế cho học sinh tại xã. Nhưng kể từ năm 1990 đến nay, doanh nghiệp của ông Đoàn Nguyên Đức đã phất lên như diều gặp gió. Ông Đức trở thành chủ của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai – một tập đoàn tư nhân – hoạt động trong nhiều lĩnh vực, doanh thu kể từ năm 2005 đã vượt quá 1.200 tỷ đồng, các năm sau đều cao hơn năm trước và dự kiến năm nay có thể lên đến 4.000 tỷ đồng. Các sản phẩm của HAGL Group như đồ gỗ nội – ngoại thất cao cấp; đá granit ốp lát tự nhiên mủ cao su… đã có mặt hầu khắp các thị trường châu Á, châu Âu, châu Mỹ, Australia và New Zealand. Các văn phòng đại diện của HAGL cũng được thiết lập tại nhiều nước nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận, giao dịch với tập đoàn một cách thuận tiện và nhanh chóng nhất. Hiện nay, HAGL Group còn mở rộng đầu tư sang lĩnh vực kinh doanh địa ốc, như xây dựng các trung tâm thương mại, căn hộ cao cấp, văn phòng cho thuê, và đã cho ra đời một loạt khách sạn, khu nghỉ mát 4 sao, 5 sao tại TP HCM, Đà Lạt, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Pleiku… Tính đến thời điểm 31/1/2008 tổng giá trị tài sản ròng của HAGL Group đã đạt 25.576 tỷ đồng, vượt xa so với con số 11.600 tỷ đồng đầu năm 2007. Ông Đức cho hay sở dĩ đạt được con số trên là do HAGL hiện đang sở hữu 27 dự án bất động sản, trong đó có những dự án đã được đầu tư và mua đất từ năm 2000. Do giá thị trường bất động sản, đặc biệt là căn hộ cao cấp tăng cao nên tổng giá trị tài sản ròng của tập đoàn cũng tăng. goài ra, HAGL còn đang sở hữu hệ thống khách sạn, các resort, 5 nhà máy sản xuất đồ gỗ và chế tác đá granite, trên 20.000 ha cao su tại Gia Lai, Kon Tum và Lào, nhà máy thủy điện 143 MW; 2 mỏ sắt và một mỏ đồng… Theo kết quả kiểm toán của Earns & Young, năm 2007 vừa qua HAGL đạt 870 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế vượt chỉ tiêu đề ra 270 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế năm 2008 ước đạt 2.500 tỷ đồng. Ông Đoàn Nguyên Đức cho biết thêm, trong năm 2008, HAGL Group cam kết sẽ tài trợ cho Lào 100% vốn với giá trị lên đến 19 triệu USD để xây dựng làng vận động viên SEA Games 25, gồm tám khu nhà chức năng với khoảng 42.000 m2 sàn xây dựng, là một khu ở khép kín cho 4.000 vận động viên quốc tế. Trong tổng vốn 19 triệu USD, 4 triệu USD là tài trợ không hoàn lại, phần còn lại được cho vay thời hạn ba năm không lãi suất. Khoản tiền vay sẽ được Chính phủ Lào hoàn trả bằng gỗ khai thác và các dạng quota khác cho HAGL. Ngoài ra Chính phủ Lào còn tạo điều kiện cho HAGL thăm dò tiềm năng khai thác khoáng sản ở Nam Lào và cấp cho HAGL 10.000 ha đất trồng cao su, nâng tổng diện tích đất dự án cao su tại tỉnh Attapeu của HAGL lên 15.000 ha, bao gồm cả đất để xây dựng hai nhà máy chế biến mủ cao su với tổng công suất 40.000 tấn một năm. Theo tính toán trong vòng 5 đến 7 năm tới lợi nhuận của HAGL từ việc đầu tư tại Lào có thể lên đến trên dưới 100 triệu USD một năm nhờ xuất khẩu cao su và các sản phẩm từ cao su và gỗ. Rõ ràng là đồng tiền mà bầu Đức bỏ ra để khuyếch trương thương hiệu và uy tín của Tập đoàn cũng như 15.000 ha trồng cao su trên đất Lào, quả thật là những con gà đẻ trứng vàng. Tìm hiểu thêm về Đoàn Nguyên Đức người tiên phong thay đổi diện mạo bóng đá việt 1. Mua tiền đạo người Thái Kiatisuk 
Mua Kiatisuk (vàng) là thương vụ thành công của bầu Đức. Năm 2002, HAGL còn chơi ở giải hạng Nhất, bóng đá Việt Nam mới chỉ có hai năm lên chuyên nghiệp, và quyết định đưa tiền đạo số một Đông Nam Á thời điểm đó về Gia Lai với mức lương 9.000 USD mỗi tháng khiến giới chuyên môn, người hâm mộ sửng sốt. Thậm chí, đến cả CLB của Thái Lan cũng không tin nổi điều này. Khi bầu Đức sang Thái để đàm phán hợp đồng mua Kiatiasuk, CLB chủ quản của anh còn không thèm tiếp doanh nhân này. Bầu Đức phải ở lại Bangkok ròng rã trong hai tháng để tìm mọi cách tiếp xúc và tiến tới ký kết hợp đồng. Bầu Đức nhớ lại chính chân sút người Thái cũng chất vấn rằng “lấy tiền đâu ra mà trả lương”. Khi đó, ông chủ của HAGL lập tức điện về và ra lệnh chuyển số tiền tương đương hai năm lương vào tài khoản của Kiatisuk. Thời gian đó, Kiatisuk là linh hồn của đội tuyển Thái Lan. Tiền đạo này được dân Việt Nam yêu bóng đá ngưỡng mộ không chỉ vì tài năng trên sân cỏ mà những phẩm chất đạo đức của anh. Vì thế, có thể nói đây là thương vụ táo bạo và khôn ngoan của bầu Đức. Trước đó, không ai biết Đoàn Nguyên Đức hay HAGL là ai nhưng mọi chuyện đã thay đổi từ khi Kiatisuk tới Gia Lai. 2. Hợp tác với Arsenal và khai trương Học viện bóng đá HAGL Arsenal JMG 
Bầu Đức ngồi dùng bữa với HLV Arsene Wenger. Ảnh HAGL cung cấp. Sự nổi tiếng của CLB nước Anh lan tỏa ở Việt Nam và khắp thế giới nhờ những trận đấu ở giải Ngoại hạng. Doanh nhân người Việt ngồi cùng bàn ăn với HLV Arsene Wenger, chụp ảnh cùng các danh thủ như Adebayor. Học viện bóng đá đầu tiên ở Việt Nam được xây dựng trên phố núi với quy trình đầu tư bài bản cho các tài năng bóng đá trẻ. Những mầm non này sẽ tương lai của bóng đá Việt Nam. Hàng tuần, người yêu bóng đá cả nước được thấy dòng chữ Hoàng Anh Gia Lai Việt Nam chạy trên những banner quảng cáo khắp sân Emirates của Arsenal tại London (Anh). 3 . Mua cầu thủ gốc Việt Lee Nguyễn 
Bầu Đức và Lee Nguyễn trong lễ ký hợp đồng vào ngày 18/1 vừa qua. Cầu thủ trẻ gốc Việt từng được gọi vào đội tuyển quốc gia Mỹ sẽ trở về chơi bóng ở quê nhà từ V-League 2009. Lee Nguyễn sẽ nhận mức lương khủng với 10.000 USD mỗi tháng trong bản hợp đồng 3 năm. Đẳng cấp của Lee Nguyễn đã được khẳng định ở giải vô địch bóng đá Hà Lan và Đan Mạch. Anh cũng từng ghi ba bàn thắng trong một trận đấu giao hữu thử chân trước mùa giải trong màu áo HAGL. Tiền vệ trẻ gốc Việt này hứa hẹn sẽ tạo nên cơn sốt mới ở bóng đá Việt Nam vài năm tới. Trích dẫn từ nhiều nguồn . |
đăng 00:52 15 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
Ông chủ đầm tôm thích bayNuôi tôm công nghệ cao vì Việt Nam chưa có ai làm, thành lập Air Mekong bởi thấy việc đi lại bằng đường hàng không còn nhiều bất cập… Tiến sĩ Đoàn Quốc Việt khiến nhiều người bất ngờ vì những quyết định của mình.
Sau khi bảo vệ thành công luận án nghiên cứu sinh tại Học tại viện Hàng không và Cơ học ứng dụng Đại học Bách khoa Warsaw, ông Đoàn Quốc Việt không khởi nghiệp bằng nghề mình đã học mà kinh doanh trong lĩnh vực khách sạn tại Ba Lan. Trong một lần về nước, đi du lịch ở Hạ Long, ông cùng với vài người bạn loay hoay mãi không tìm được khách sạn như ý. Người bạn đề xuất: “Sao ông không đầu tư xây dựng khách sạn nào đó tại đây”. Ông Việt chợt nghĩ: “Ừ nhỉ, ngẫm cũng phải”. Thế là khách sạn tư nhân 4 sao Hạ Long Plaza ra đời thời gian sau đó.  | Chủ tịch Air Mekong. |
Không chỉ có khách sạn, sự nghiệp kinh doanh của ông tại Việt Nam là một chuỗi những tình cờ thú vị, đi kèm với những cơ hội. Từ một phó tiến sĩ được đào tạo về lĩnh vực ứng dụng hàng không, đi kinh doanh khách sạn, đùng một cái, ông chuyển sang nghề nuôi tôm. Các lĩnh vực này vốn chẳng mấy liên quan đến nhau. Khi được hỏi chuyện, ông Việt nói một cách say sưa về những ngày đầu chật vật với việc nhân giống, chọn lựa tôm bố mẹ, rồi những sản phẩm tôm lần đầu tiên mang đi xuất khẩu. Ông Việt nhớ lại, trong một lần trao đổi về ngành thủy sản khi tới thăm Hạ Long, Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn có bày tỏ tâm tư về việc ngành nuôi tôm của Việt Nam quá bấp bênh. Tại thời điểm đó, Việt Nam chưa công ty nào có thể nuôi tôm bố mẹ sạch bệnh, giúp các mùa tôm có thu hoạch ổn định; phần lớn đều ở tình cảnh bấp bênh, mùa này được nhưng mùa sau lại mất. Nghe vậy, ông chủ của Hạ Long Plaza nói rằng mình có thể làm được, dù kiến thúc về nuôi tôm lúc đó chỉ là con số 0. Sau cuộc nói chuyện với Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn, ông Việt đặt quyết tâm phải làm bằng được. Ông chủ khách sạn đã sang Mỹ mời một chuyên gia hàng đầu về nuôi tôm, đưa về Việt Nam để xây dựng một trại tôm giống sạch bệnh đầu tiên ở trong nước. Sau 14 tháng, lứa tôm giống sạch bệnh đầu tiên đã ra lò. Kể từ thời điểm này, những đầm tôm ở Việt Nam đã bắt đầu bớt đi sự bấp bênh do dịch bệnh cũng như thời tiết nhờ tôm giống được ra đời và chăm sóc với những phương pháp, công nghệ mới. “Một số người thường nghĩ đến nuôi tôm là vài cái ao và một nền nông nghiệp mà không biết rằng đó là ngành sử dụng nhiều công nghệ mới. Chỉ riêng đầm tôm của chúng tôi đã cần tới 50 chuyên gia nước ngoài ở tất cả các công đoạn để thực hiện việc áp dụng và chuyển giao công nghệ”, ông chia sẻ. Chưa hết, ông chủ đầm tôm tâm tư: “Nhiều người cứ nghĩ tôi đang sở hữu vài ba cái ao. Họ đâu biết tôi đang có diện tích nuôi tôm lên tới 1.300 ha - lớn nhất trong các doanh nghiệp nuôi tôm xuất khẩu ở Việt Nam”. Mỗi năm, đầm tôm của ông đem lại doanh thu hàng trăm tỷ đồng với hàng nghìn tấn sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật và Đông Âu.  | Gia đình ông Đoàn Quốc Việt (Vợ, con trai, con gái và con rể) trên đỉnh núi Mount McKinley cao nhất của bang Alaska, Mỹ. |
Ngoài việc đi tiên phong trong nuôi tôm sạch bệnh, ông Việt từng gây ngạc nhiên với tuyên bố sẽ nuôi cá song đẻ được trong khi những đơn vị nuôi loại cá này thời điểm đó chưa thành công. Ông chủ đầm tôm cho biết: “Lúc đó tôi chưa biết nuôi cá song đẻ khó thế nào nhưng nghĩ, nếu nước khác làm được mà mình lại có điều kiện khí hậu thuận lợi thì cũng có thể thành công”. Đúng như ông nói, sau 6 tháng tìm hiểu tại Đài Loan, mời chuyên gia nước ngoài về thực hiện chuyển giao công nghệ, năm 2001, chủ đầm tôm đã thành công trong việc nuôi cá song đẻ. Câu chuyện kinh doanh hàng không của ông cũng đến ngẫu nhiên như kinh doanh đầm tôm vậy. Công ty Đầu tư và Phát triển sản xuất Hạ Long (BIM) mà ông Việt làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc có nhiều dự án từ Bắc tới Nam. Cũng vì thế, nhu cầu đi lại bằng đường hàng không của ông rất cao, trong khi dịch vụ trong ngành này lại hạn chế. Nhận thấy nhu cầu và những mảng thị trường còn trống, Chủ tịch của BIM quyết định đầu tư mở hãng hàng không mới với tên gọi Air Mekong. Ông cho biết, giữa tôm và hàng không có một điểm chung là cùng liên quan đến quá trình chuyển giao vốn cũng như công nghệ cao. Tuy nhiên, không nhanh như nuôi tôm, quá trình khai trương Air Mekong của ông Việt mất tới 2 năm chuẩn bị. Tương tự như nuôi tôm, đội ngũ ban đầu của Air Mekong có hầu hết nhân sự chủ chốt là người nước ngoài như phi công (100%), bảo dưỡng kỹ thuật (90%)… Ông chủ của hãng giải thích: “Hàng không là một ngành có tiêu chuẩn tuyệt đối. Vì thế, nếu như mới bay mà các yếu tố về đảm bảo an toàn, đúng lịch trình, thời gian, dịch vụ không được đảm bảo thì sẽ khó tồn tại. Thêm vào đó, đây cũng là một ngành mà Việt Nam còn lạc hậu nên cần có chuyển giao công nghệ từ các hãng nước ngoài nên nhân tố ngoại đóng vai trò quan trọng tại Air Mekong trong thời kỳ đầu”. Cũng nhờ “yếu tố ngoại”, trong 3 tháng bay đầu tiên, Air Mekong trở thành hãng hàng không tại Việt Nam không chậm giờ, bỏ chuyến trong cả điều kiện thời tiết xấu. Nhiều khách hàng bay hạng ghế thương gia đã quay trở lại và cùng đồng hành với hãng trên các chuyến tiếp theo. “Chi phí ban đầu có thể cao nhưng uy tín của hãng được đảm bảo là nhân tố quan trọng nhất khi chúng tôi mới bước chân vào ngành hàng không”, ông chủ đầm tôm tâm sự. Thừa nhận Air Mekong khó có khả năng sinh lời cao nhưng ông Việt tiết lộ, hàng không đem lại những cơ hội mới cho các dự án khách sạn, khu nghỉ dưỡng của BIM và những nguồn lợi khác mà người bên ngoài khó nhìn thấy. Ông cũng cho biết thêm, Air Mekong không có những khát vọng to lớn gì trong việc cạnh tranh với các đàn anh như Vietnam Airlines hay Jetstar Pacific. “Chúng tôi không có thói quen chứng minh là mình giỏi hơn ai mà chỉ muốn tồn tại để tăng thêm sự lựa chọn cho khách hàng”, người đứng đầu Air Mekong tâm sự. Theo ông Việt, chiến lược của hãng là sử dụng máy bay phản lực hiện đại để tạo ra các thị trường ngách. Trong vòng 5 năm tới, Air Mekong sẽ tập trung vào các tuyến bay tới hải đảo, cao nguyên - những mảng mà các hãng lớn chưa làm, để tạo sự khác biệt. Sau khi khai thác tốt các thị trường ngách, hãng mới tính tới các trục bay nhờ nối các ngách lại với nhau. Điều hành một nhóm công ty kinh doanh đa ngành (tôm, muối, bất động sản, hàng không…), ông chủ của BIM luôn bận rộn. Cũng vì thế, ông cũng chưa thu xếp được thời gian để đi chơi golf với nhiều người bạn mà đơn giản chỉ chạy bộ mỗi ngày ở nhà để rèn luyện khỏe. Cứ hai tuần một lần, ông Việt cố gắng bỏ thời gian cùng vợ đi chợ và đích thân vào bếp nấu cơm để không khí gia đình thêm phần ấm áp. “Đó cũng là một thú vui của tôi”, ông tâm sự. Mỗi năm, ông chủ của BIM dành một đến hai kỳ nghỉ để cùng cả gia đình khi khám phá những vùng đất đặc biệt trên thế giới và cũng để học hỏi từ những chuyển đi. “Sắp tới, BIM có thể sẽ đầu tư thêm vào ngành năng lượng gió và sẽ phát triển ngành này trên chính vùng sản xuất công nghiệp muối Quán Thẻ - Ninh Thuận - nơi mà tiềm năng về gió thuộc loại bậc nhất Việt Nam”, chủ tịch Đoàn Quốc Việt nói. Hồng Anh - Hoàng Ly |
đăng 00:18 15 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
[
đã cập nhật 00:20 15 thg 11, 2011
]
dimanche 7 mars 2010 18:30:06 văn hóa HỌ ĐOÀN QUÊ TÔI NGÀY GIỖ TỔ
doanducthanh-KIẾN TRÚC VIỆT: Họ Đoàn có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Vào thời Tiền Lý (544-602) có cụ Đoàn Danh Tích về An Mai (nay là thôn Thanh Mai, xã An Thanh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) khai hoang, lập làng. Vào thời nhà Ngô (939-965) có cụ Đoàn Huy Lượng – tướng của Ngô Quyền – tham gia đánh giặc Nam Hán. Đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) đã có cụ tổ chuyển cư về Tô Xuyên, nay thuộc xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình để khai hoang lập ấp. Đời sau có cụ Đoàn Văn Khâm, chuyển về làng Cổ Phục, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Cụ Khâm trúng tuyển khoa thi Minh Kinh bác học năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128) là khoa thi nho học đầu tiên nhà nước Việt Nam, sau cụ được bổ nhiệm Thượng thư Bộ Công. Đời thứ 5 của cụ Khâm có danh nhân Đoàn Thượng, sinh ở Xuân Độ, nay là thôn Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, là một vị tướng tài cao, chí lớn và đức độ vào cuối đời vua Lý Cao Tông (1176-1210). * Giỗ Tổ họ Đoàn quê tôi: Làng Bách Tính, xã Nam Hông, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ảnh: Đoàn Đức Thành. Trên địa bàn Bắc Bộ, chủ yếu là các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Tây (cũ) theo thống kê chưa đầy đủ có khoảng trên dưới 200 chi họ từ 15 đến 36 đời con cháu. Những chi họ này là đời sau của các cụ tổ có nguồn gốc lâu đời nhất là ở ba địa bàn Hà Nội – Hải Dương – Thái Bình mà xưa kia cùng một cụ tổ sinh ra. Ỏ miền Trung, miền Nam, nhất là các tỉnh Nam Bộ, có rất đông bà con họ Đoàn sinh sống, theo tìm hiểu của tôi thì gốc gác vẫn ở các tỉnh phía Bắc chuyển vào Nam từ nhiều đời nay. Theo tộc phả, họ Đoàn quê tôi xuất phát từ huyện Vũ Thư, Thái Bình. Cách đây 17 đời cụ Minh Thông từ đất Vũ Thư đến lập nghiệp tại làng Bách Tính nay thuộc xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Tôi là đời thứ 15, thuộc ngành cả, nên là Trưởng nam của họ Đoàn ở đây. Hàng năm vào ngày 21 và 22 tháng Giêng âm lịch, họ Đoàn chúng tôi tổ chức giỗ cụ Minh Thông. Trước năm 1945, các cụ vẫn tổ chức rước văn và tế lễ. Từ mùa Xuân năm Giáp Tuất (1994) quê tôi lại khôi phục tế lễ như xưa. Con cháu xa gần nhớ ngày ấy thì về giỗ Tổ, cũng là dịp để bà con trong họ mạc gặp gỡ, quen biết nhau. Đại diện họ Đoàn ở Vũ Thư, Thái Bình cũng sang dâng lễ. Họ Đoàn quê tôi không lớn, có biến động lớn về dân số, đó là năm đói 1945. Bà con phải đi tha phương cầu thực và chết đói nhiều. Số đinh còn ở lại không là bao. Sau này rời quê hương đi công tác, sinh cơ lập nghiệp cũng nhiều, nên số người còn ở lại quê hương chỉ có mấy chục gia đình. Từ đường họ Đoàn quê tôi là ngôi nhà gỗ lim ba gian, theo chữ Hán khắc trên sào mực thì các cụ xây dựng vào năm Nhâm Dần (1902). Công trình tuy nhỏ nhưng trạm khắc công phu, đặc biệt bộ vì rất đẹp và còn bền chắc. Tôi vừa về quê giỗ tổ hai ngày, ghi lại một số hình ảnh giỗ Tổ trong năm nay. * Gia tộc họ Đoàn quê tôi: Làng Bách Tính, xã Nam Hông, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ảnh: Đoàn Đức Thành. Ảnh: Đoàn Đức Thành.
* Cụ Tiên chỉ Đoàn Văn Tề (áo đỏ) và Trưởng Nam Đoàn Đức Thành (áo trắng) và 3 vị đại diện họ Đoàn ở Vũ Thư, Thái Bình trong ngày Giỗ Tổ. Ảnh Đoàn Đức Thành.
* Ngôi Từ đường họ Đoàn quê tôi xây dựng từ năm 1902, điêu khắc trang trí với nghệ thuật cao, còn bền chắc. Ảnh: Đoàn Đức Thành. * Ngôi Từ đường họ Đoàn quê tôi xây dựng từ năm 1902, điêu khắc trang trí với nghệ thuật cao, còn bền chắc. Ảnh: Đoàn Đức Thành. * Toàn cảnh ngôi Từ đường quê tôi. Ảnh: Đoàn Đức Thành. * Quê tôi có cầu Thượng gia hạ kiều, ở chợ Thượng, xã Bình Minh, Nam Trực, Nam Định là một trong những cầu ngói từ thời Hậu Lê còn lại ít ỏi ở đồng bằng Bắc Bộ. Ảnh: Đoàn Đức Thành. |
đăng 23:43 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
Dân chơi đồ cổ suốt từ Bắc vào Nam đều ngả mũ nón thán phục Tuấn Bun Hà Nội
- đại gia của thế giới đồ cổ. Thán phục không phải vì hàng ngàn hiện vật đồ cổ
vô giá đang chen chúc nhau chất đống trong nhà của gã, mà ngả mũ nón thán phục
vì...
1. Tên họ: Đoàn Anh Tuấn. Nhà đã 3 đời định cư ở đất
Kinh kỳ. Có nòi chơi đồ cổ từ đời ông cố nội. Dân Hà Nội cũ ở 36 phố cổ Hà
thành đều biết tiếng gia tộc họ Đoàn không phải vì có tài buôn bán lụa là gấm
vóc mà là vì tuốt tuột cái gia tộc họ Đoàn này từ lớn bé, trẻ già, đàn ông đàn
bà đều có chung một thứ máu mê đồ cổ.
Mấy chục năm trước của thế kỷ trước, đồ cổ cũng giống như vàng như ngoại tệ
đô la, đồng bảng, đồng mác đó là những thứ quốc cấm, dính vào là có cơ đi suốt,
vào tù ngồi bóc lịch như bỡn ấy vậy mà cả cái dòng tộc họ Đoàn này vẫn cứ âm
thầm đeo bám nỗi đam mê đó, khác nào ủ hòn than hồng trong đống tàn tro để...
chờ cơ. Được gia đình bỏ tiền của nuôi cho ăn học chu đáo đàng hoàng.
Có tài hội họa. Được cử sang Bun-ga-ri học mỹ thuật 5 năm. Có lẽ vì thế mà
gã được mang tên Tuấn "Bun". Về nước, bằng đỏ chói. Dán cái mác hoạ
sĩ được đào tạo ở nước ngoài to tướng trên trán. ấy vậy mà gã lại quẳng cây cọ
đi, chê cái nghề vẽ là nhạt. Gã vẽ đẹp.
Nhưng không thích vẽ. Gã vẽ lăng nhăng, chẳng bao giờ bày triển lãm cá nhân.
Gã cũng chẳng bao giờ kiếm ăn bằng nghề vẽ.Tiếc gã có bằng đỏ ngoại quốc,
trường này trường nọ đánh tiếng mời gã về gõ đầu sinh viên.
Gã cũng lắc đầu. Nhà gã suốt ngày đóng cửa im ỉm. Không giống mấy ông văn
nghệ sĩ đồng bọn, cửa giả cứ mở thông thống suốt ngày líu tíu bạn bè ra vào
nhậu nhẹt, tán láo.
Trong nhà gã lúc nào cũng tối lờ mờ, lom khom bóng mấy ông cụ (cả cụ non lẫn
cụ già) thì thào, lau lau chùi chùi, đắc ý sờ mó xuýt xoa cứ như một ổ buôn bạc
giả. Nhưng rõ ràng không phải bọn buôn bạc giả, mà đó là dân chơi đồ cổ. Dân
chơi đồ cổ thứ thiệt chính hiệu của đất Tràng An.
- Tại sao ông bỏ nghề họa sĩ cao quý mà lại đắm đuối cái nghề đồ cổ?
- Xin đính chính.Với tôi không có cái nghề đồ cổ mà chỉ có cái thú chơi đồ
cổ. Tôi chơi đồ cổ chỉ vì một lý do đơn giản. Tôi muốn đi tìm câu trả lời cho
câu hỏi mỗi khi được cầm trên tay những báu vật này
- Câu hỏi gì vậy ?
- Câu hỏi là: Cái vò này, cái chum này... ngày xưa các cụ nhà ta dùng để làm
gì?
- Những ông chơi đồ cổ phải ranh ma lắm?
- Ranh ma cũng chẳng lại được với ông trời. Mọi sự trên đời này có được
không phải cậy cái sự ranh ma, mà trông ở cái duyên. Đồ cổ lại càng đúng như
thế. Mình có duyên thì sẽ gặp. Có duyên thì phúc lộc sẽ bá vai nhau tới tận
nhà. Nhưng mà theo tôi người chơi đồ cổ phải luôn lưu tâm tới hai điều: Điều
thứ nhất là phải biết dừng. Điều thứ hai là lộc bất tận hưởng.
- Dân đồ cổ kháo nhau Tuấn "Bun" chơi đủ mọi thứ đồ cổ không
kiêng kỵ niên đại, cũng chẳng chê gốc gác quốc tịch của ta hay của tây. Nhưng
ông dị ứng đồ trục vớt. Tại sao vậy?
- Tôi kiên quyết không chơi đồ trục vớt. Tôi không thích cái thứ đồ chất
hàng đống trên thuyền, đem đi bán rồi gặp bão, gặp tai nạn rủi ro gì đó đắm
thuyền chìm nghỉm dưới đáy sông, đáy biển. Thứ đồ đó chỉ là hàng hoá mới ra lò,
chưa qua tay người dùng, chưa có chủ. Theo tôi, đồ cổ còn quý ở chỗ nó phải có
chủ.
Và chủ nó là ai ? Cái ấn vàng do anh thợ vàng đúc ra đang nằm trong tay anh
thợ vàng, thì không thể có giá trị bằng cái ấn vàng đang nằm trong tay nhà vua,
được nhà vua dùng hàng ngày thường xuyên đóng dấu cái rụp nay chặt đầu người
này, mai ban thưởng vàng bạc cho người khác. Và nó lại càng quý hơn nếu cái ấn
ấy đã trải qua mấy triều đại, mấy đời vua.
2. Vóc người tầm thước. Nhanh nhẹn. Da dẻ hồng hào. Râu ba
chòm. Ăn mặc lôi thôi một cách cố tình. Tướng mạo trông từa tựa như nhà văn
Nguyên Hồng, nhưng có vẻ hiện đại hơn nhờ có búi tóc củ hành ở sau ót. Tuy vậy,
nhìn toàn cảnh, nếu đem so đo với thế hệ @ thì trông ông quê một cục.
Nhưng có lẽ như vậy mới là một tay chơi đồ cổ sành điệu của thế giới đồ cổ.
Đến gõ cửa nhà gã. Một ngôi nhà 3 tầng mới xây. Số lẻ. Trong một cái ngõ cũng
số lẻ ở phố Kim Ngưu chen chúc, bụi bậm.
Một cô bé ra mở cửa. Mặt rầu rầu, không cười không nói và cũng không vâng dạ
chào hỏi. Đi qua cái hành lang nhỏ lát gạch Tàu, bước chân đầu tiên leo lên gác
là đập mắt, va tay, va chân vào thôi rồi cơ man toàn là những chum, vại, bát
đĩa, nồi niêu hàng trăm thứ, hàng ngàn thứ lũ lượt xếp hàng theo từng bậc cầu
thang.
Leo lên gác hai, vào một căn phòng rộng tới ngót nghét trăm mét vuông, ngút
mắt là hàng ngàn thứ đồ cổ to nhỏ kì quái đủ loại muôn hình, muôn vẻ, xếp chật
ních. Phải lách chân mới tới được bộ bàn ghế cổ kê ở góc nhà. Một tủ kính đặt ở
ngay sau lưng bộ bàn ghế. Trong tủ bày cơ man đá quý dạng thô chưa chế tác.
- Ông giàu nứt đố đổ vách ?
- Nhầm. Tôi nghèo. Có người chửi tôi giả nghèo giả khổ để đùa bỡn cái sự
giàu có của thiên hạ. Nhưng tôi là người theo đạo Phật. Tôi đâu dám cợt nhả đùa
bỡn người đời.
Tôi nghèo và tôi vẫn đang tiếp tục nghèo. Từ khi chơi đồ cổ đến hôm nay,
Tuấn "Bun" này chỉ mua vào chứ chưa hề bán ra một thứ đồ cổ nào. Tôi
kiếm tiền nhờ có nghề làm đồ gỗ giả cổ và nghề chế tác đá quý.
- Ông bán cả nhà để mua đổ cổ ?
- Thưa vâng. Năm 1998 Nhà nước ban hành luật di sản thừa nhận quyền sở hữu
tư nhân đồ cổ cho những người chơi đồ cổ. Tôi đã bán ngay ngôi nhà mặt phố
Trương Định để lấy tiền mua đồ cổ. Ngôi nhà này là nhà tôi đi thuê.
- Nghe nói ông đang chuẩn bị thành lập bảo tàng tư nhân để khuếch
trương bảng hiệu, danh tính ?
- Trò khỉ. Tôi mua đồ cổ để chơi và để tặng. Năm Giáp Thân, tôi đã hiến tặng
cho Bảo tàng Lịch sử Trung ương 2 trống đồng Đông Sơn có niên đại 2500 năm.
Tôi cũng hiến tặng Bảo tàng Thái Bình 93 cổ vật rất quý và hiếm. Tặng Bảo
tàng Quảng Ninh 105 cổ vật cũng rất quý hiếm từ thời Hậu đồ đá, thời Đông Sơn
và thời nhà Trần. Đổi lại tôi được tặng một cái giấy khen rất đẹp.
- Ông có máu điên ?
- Tôi không điên. Nguyên tắc chơi đồ cổ của tôi là giữ đồ cổ cho mọi người.
Chơi đồ cổ sướng lắm. Hiến tặng đồ cổ cho bảo tàng là để cho mọi người có điều
kiện đến để xem để họ cũng được sướng như mình. Tôi hy vọng một ngày nào đó
công việc hiến tặng đồ cổ sẽ được xã hội hoá.
3. Đầu năm 2005 Hiệp hội câu lạc bộ UNESCO Việt Nam ký
quyết định thành lập câu lạc bộ UNESCO nghiên cứu và bảo tồn cổ vật Việt Nam và
bổ nhiệm ông Đoàn Anh Tuấn làm Chủ tịch. Ông Tuấn hồ hởi và tâm đắc lắm: Đồ cổ
là văn hoá vật thể vô cùng quý hiếm, là minh chứng của thời gian để lại lưu giữ
những giá trị của lịch sử dân tộc.
Nhiệm vụ của câu lạc bộ là phải nghiên cứu, bảo tồn và phổ biến cho cộng
đồng nhằm góp phần xã hội hoá văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, thức tỉnh
lòng tự hào dân tộc theo đúng chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Một năm qua câu lạc bộ đã tổ chức được 2 cuộc triển lãm trưng bày cổ vật ở
các tỉnh và đánh giá, xác định niên biểu hàng ngàn cổ vật vô giá.
Và câu lạc bộ hiện đang phối hợp với Sở Văn hoá thông tin thành phố Hà Nội
tổ chức trưng bày cổ vật các giai đoạn lịch sử dân tộc Việt Nam các thời kỳ Hậu
đồ đá mới, thời kỳ Phùng Nguyên, Đông Sơn, thời kỳ 10 thế kỷ đầu Công nguyên,
thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn, Chăm Pa, óc Eo, các hiện vật thế kỷ 18 đến thế kỷ
20. Và các sưu tập gốm sứ Trung Hoa.
Ngày mồng 3 Tết ta, gọi điện đến nhà chúc Tết thì được trả lời: Ông Tuấn
đang thường trực ở ngoài nhà triển lãm. Điện Kính Thiên trong khu thành cổ Hà
Nội ngày xuân tấp nập người đời dạo chơi thăm viếng. Năm gian nhà rộng bày kín
những cổ vật vô cùng quí hiếm.
Ông Tuấn sướng lắm. Ông hể hả khoe: Nhờ có câu lạc bộ mới tập hợp được nhiều
anh em chơi đồ cổ tham gia đông vui, hùng hậu như thế này. Thế là thắng lợi to
rồi. Hỏi ông những ngày tới làm gì thì ông bảo:
- Tôi đang chuẩn bị hiến tặng Đền Hùng nhiều cổ
vật quý hiếm. Và sẽ có nhiều anh em chơi đồ cổ thành viên của câu lạc bộ cũng sẽ
tham gia hiến tặng cùng với tôi lần này
Trích từ giaothongvantai.com.vn/.../Co_ga_Tuan_khung_trot_me_do_co |
đăng 23:27 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
[
đã cập nhật 23:35 31 thg 1, 2012
]
Chả
cá Lã Vọng, món đặc sản của người Hà Nội đã quyến rũ cả du khách bốn
phương."Chả cá - một kiệt tác nghệ thuật về món cá rán ngon bổ, một món
quà mà gia tộc họ Đoàn đã chế biến qua nhiều thế hệ". Đó là lời giới thiệu
mà hãng tin hàng đầu của Mỹ MSNBC dành cho chả cá Lã Vọng khi đưa món đặc sản
này vào danh sách "10 nơi nên biết trước khi chết".
Theo bà Ngô Thị Tình, con dâu đời thứ 3 của nhà họ Đoàn, năm nay đã 82 tuổi,
món chả cá là do cụ tổ của gia tộc họ Đoàn nghĩ ra, ở Việt Nam chỉ có gia tộc họ
Đoàn có món gia truyền này. Hàng chả cá thì có nhiều lắm, nhưng không ở đâu có
"chả cá Lã Vọng". Thế gian có vạn người câu cá, nhưng người ta chỉ biết
đến Khương Tử Nha, vì ông có kiểu câu cá rất riêng với "cần ngắn lưỡi
dài". Thương hiệu "Chả cá Lã Vọng" được nhà nước chính thức công
nhận từ năm 1989. Chữ "Lã Vọng" xuất phát từ việc bố mẹ chồng bà Tình
sinh được cô con gái út, đi đâu chơi cũng cho cô đi cùng. Ông bố lên phố Hàng
Thiếc, sắm đồ chơi Trung Thu, cô út thích ông Lã Vọng mua về để chơi. Sau ngày
Tết, cụ đem bày tượng Lã Vọng lên mặt tủ, từ đó nhà hàng có tên: Chả cá Lã Vọng Tháng 11, 2011 bởi Cố Hương trong mục Món ngon Hà Nội, Đồng hồ Chả cá Lã Vọng là tên của một đặc sản Hà Nội. Đây là món cá tẩm ướp, nướng trên than rồi rán lại trong chảo mỡ, do gia đình họ Đoàn tại số nhà 14 phố Chả Cá (trước là phố Hàng Sơn) trong khu phố cổ giữ bí quyết kinh doanh và đặt tên cho nó như trên Lịch sử Vào những năm thời kỳ Pháp thuộc, ở số 14 Hàng Sơn có một gia đình họ Đoàn sinh sống, họ thường lấy nhà mình làm nơi cưu mang nghĩa quân Đề Thám. Chủ nhà hay làm một món chả cá rất ngon đãi khách, lâu dần thành quen, những vị khách ấy đã giúp gia đình mở một quán chuyên bán món ăn ấy, vừa để nuôi sống gia đình, vừa làm nơi tụ họp. Lâu dần, hai tiếng 'Chả Cá' được gọi thành tên phố. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng - Khương Tử Nha ngồi bó gối câu cá – biểu tượng của người tài giỏi nhưng đang phải đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên nhà hàng và cũng là của món ăn. Cách làm Cá làm chả thường là cá lăng tươi. Đây là loại cá ít xương, ngọt thịt và thơm. Đặc biệt nhất và cũng vô cùng hiếm hoi là chả làm từ cá Anh Vũ, bắt ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ). Không có cá lăng thì có thể dùng đến cá nheo, cá quả, nhưng cá nheo thì thịt bở hơn và cá quả thì nhiều xương dăm hơn nên không ngon bằng cá lăng. Thịt cá được lọc theo kiểu lạng từ hai bên sườn, thái mỏng, ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm theo một phương cách bí truyền đặc biệt ít nhất 2 giờ đồng hồ, rồi kẹp vào cặp tre (hoặc vỉ nướng chả có quết một lớp mỡ cho đỡ dính). Người nướng phải quạt lửa, lật giở đều tay sao cho hai mặt đều chín vàng như nhau. Chuẩn bị ăn, người ta mới mang những kẹp chả nướng đã chín trút vào chảo mỡ sôi đặt trên bếp than hoa đặt trên bàn ăn, cùng với rau thì là và hành hoa cắt khúc. Thường người ta không dùng dầu ăn vì nhiệt độ thấp hơn và cá kém thơm hơn. Chả phải ăn nóng. Khi ăn, gắp từng miếng cá ra bát, rưới nước mỡ đang sôi lên trên, ăn kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng Láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ chấm với mắm tôm. Mắm tôm phải được pha chế bằng cách vắt chanh tươi, thêm ớt, đánh sủi lên rồi tra thêm chút tinh dầu cà cuống, thêm vài giọt rượu trắng, một ít nước mỡ và đường. Một số khách nước ngoài không ăn được mắm tôm thì thay bằng nước mắm, nhưng nước mắm ít nhiều khiến món chả cá bị giảm hương vị. Có hai cách ăn phổ biến: Cho cá đã nướng vào chảo mỡ, bỏ hành và rau thì là vào. Khi rau chín tái thì gắp ra ăn với bún, rau thơm, đậu phộng rang và mắm tôm đã pha chế theo cách cho một ít bún vào bát, cho rau và một vài miếng chả cá lên trên, rắc ít lạc rang, rưới chút mắm tôm rồi trộn ăn. Khi ăn mùi mắm tôm quyện với vị ngọt của cá, mùi rau và vị bùi của lạc rang. Do có nhiều mỡ nên khi ăn phải kèm theo cuống hành tươi chẻ nhỏ ngâm qua dấm pha loãng. Cho chả cá, hành và rau vào bát, rưới nước mỡ đang sôi và dùng ngay, có thể ăn kèm với bánh đa nướng. Cách ăn này làm vừa đủ ăn nếu không cá sẽ nguội, mất ngon. Ngoài hai cách trên, một số người có thể cho cả bún vào chảo và đảo nhanh với cá, thì là, hành hoa sau đó trút ra bát ăn. Ăn cách này rất nóng ngon nhưng hơi nhiều mỡ. Món này có thể nhắm với rượu mạnh và hợp với tiết trời lạnh. Với trời nóng thì, để cho đỡ ngán, thực khách thường uống bia. |
đăng 22:23 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
[
đã cập nhật 22:23 14 thg 11, 2011
]
Công nhận 6 di tích
quốc gia
Các di tích này tại
các tỉnh Quảng Nam, Đắk Nông, Nghệ An và Thanh Hóa.
Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã quyết định công nhận di tích cấp quốc gia đối với 6 di tích thuộc
các tỉnh Quảng Nam, Đắk Nông, Nghệ An và Thanh Hóa.
Hai di tích của tỉnh
Quảng Nam được xếp hạng di tích quốc gia trong dịp này bao gồm: Di tích lịch sử
Khu kháng chiến Hạ Lào và Phòng biên chính miền Nam Trung Bộ (xã Tam Vinh, xã
Tam Dân, Phú Ninh) và Di tích lịch sử Lăng mộ bà Đoàn Quý Phi (xã Duy Trinh,
Duy Xuyên).

Khu Lăng mộ bà Đoàn Quý Phi
Tỉnh Nghệ An có Di tích
lịch sử Bia Ma Nhai năm 1335 ở núi Thành Nam (xã Chi Khê, Con Cuông) được công
nhận là di tích quốc gia.
Di tích lịch sử Đền thờ
Cao Bá Điển (xã Hoằng Giang, Hoằng Hóa) tỉnh Thanh Hóa cũng được xếp hạng di
tích quốc gia dịp này.
Tỉnh Đắk Nông có hai di
tích là: Di tích lịch sử Địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh (xã Buôn Choah, Krông
Nô) và Di tích lịch sử Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh đoạn
Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ (xã Gia Nghĩa, xã Nam Bình, Đắk Song) được công
nhận là di tích quốc gia.
Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch yêu cầu UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng cần thực hiện việc
quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
Theo Hà Nội Mới |
đăng 21:31 14 thg 11, 2011 bởi Người dùng không xác định
[
đã cập nhật 21:38 14 thg 11, 2011
]
Là cách bạn bè và gia đình gọi ông như thế. Theo sự nghiệp võ thay vì lẽ ra phải tránh vận động; uống rượu kèm thuốc trợ tim suốt đời và lao động không ngừng nghỉ, không biết nên gọi đó là phẩm chất hay định mệnh của con người Đoàn Đình Long.
 Ở tuổi 63, Đoàn Đình Long mở hệ phái riêng của ông
Khi sự nghiệp võ học ở đỉnh cao nhất, lẫn khi thôi làm huấn luyện viên đội tuyển, khi hai con trai trưởng thành và có gia đình riêng; gia đình và bạn bè những mong sẽ là thời gian ông thực sự được nghỉ ngơi bù đắp cho trái tim tội nghiệp và một cuộc đời vốn đã quá vất vả.
Nhưng với Đoàn Đình Long, nghỉ ngơi nghĩa là chết. Ở tuổi xấp xỉ lục tuần, ông mở nhà hàng khi chưa hề có kinh nghiệm kinh doanh. Công việc thất bại khiến ông mất vài năm vất vả. Không chịu yên, ông lại ngược xuôi tìm những hoạch định mới.
Và đam mê võ chưa bao giờ thôi cháy bỏng trong con người kiên cường ấy. Bao nhiêu năm ông vẫn miệt mài đi về Trung tâm thể thao quận Đống Đa, nơi ông mở võ đường truyền dạy học trò.
Ngày 14/11/2010, ở tuổi 63, Đoàn Đình Long chính thức ra mắt hệ phái Karatedo của chính ông, với mong muốn mang được ngọn lửa võ thuật cháy bỏng của mình truyền lại cho học trò.
Với tất cả thành tựu, nhiệt huyết võ thuật và cuộc chiến số phận quật cường của ông. Trong năm 2010, liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam phong tặng Đoàn Đình Long bằng võ sư cao cấp.
|
"Chỉ có cái chết mới giải thoát được!". Những ý nghĩ u tối cứ ám ảnh người thanh niên trẻ. Và trong một buổi chiều buồn, anh nhảy xuống vực, mong kết thúc những ngày sống lê thê, mệt mỏi. Nhưng số mệnh Đoàn Đình Long không thể kết thúc đơn giản như thế.
"Đã hơn hai lần trái tim tôi bị cắt rời cơ thể vài tiếng đồng hồ...", võ sư Đoàn Đình Long, cựu huấn luyện viên trưởng đội Karatedo Việt Nam bắt đầu câu chuyện shock như thế. Chưa để người nghe hết choáng váng, ông tiếp: "Mà việc đó không chỉ xảy ra một lần..."
Sinh năm 1947 trong một gia đình đông anh em, ký ức tuổi thơ của Đoàn Đình Long gắn liền với những tháng ngày vất vả thiếu thốn, từ bát cơm manh áo, đến những niềm vui nho nhỏ của một đứa trẻ. Thật ra, đó cũng là một hoàn cảnh không mấy lạ của xã hội những năm 1960.
Và những ngày cùng cả gia đình di tản lên vùng kinh tế mới. Trọng trách anh cả của một gia đình nghèo, nhiều con đặt lên vai người thiếu niên nhỏ con, yếu sức.
Xen giữa hồi tưởng về những ngày đông đi mót sắn, những buổi đi rừng tìm củ măng củ mài, là những buổi chiều xác xơ trong đói rét; đàn em nheo nhóc nhìn ông trông đợi. Và hình ảnh một chuyến bè ghép bằng những cây nứa, đưa đại gia đình xuôi theo sông Hồng từ Phú Thọ trở về Hà Nội.
Võ sư Đoàn Đình Long, Ảnh Nguyễn Huy Khâm "Gia tài' của cả nhà sau bao năm làm 'kinh tế mới' chỉ vỏn vẹn mấy chiếc xoong nồi, bát đĩa... Trên chuyến bè đó, có lúc em ông đã bị rơi tõm xuống sông, may được phát hiện kịp.
Sau chuyến bè ấy, cuộc sống của 'ông anh cả' cùng gia đình lại trải qua những khắc nghiệt khác. Đoàn Đình Long lần lượt trải qua đủ các nghề để mưu sinh: chữa xe đạp, bốc vác thuê, quản đốc phân xưởng hóa chất, lái xe tải Lào Cai, đèo sắn khoai về đổi gạo... Những tháng ngày vất vả và kỷ niệm lam lũ cứ đi theo ông suốt đời, đè lên trái tim ông theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Năm 1969, ông xin vào học dự bị trường Đại học Thương nghiệp, vừa học vừa làm nuôi thân và gia đình. Đang học năm thứ ba khoa Hóa thực phẩm, nhà trường phát hiện ông bị bệnh về tim và cho nghỉ học. Tiếp tục ôn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội, một lần nữa sinh viên Đoàn Đình Long lại bị cho nghỉ học chỉ sau khi nhập học hai tháng. Nhà trường phát hiện ông dùng giấy chứng nhận sức khỏe giả.
Mọi cánh cửa đều đóng, tương lai mờ mịt, nỗi thất vọng chán nản tràn ngập lên trái tim ốm yếu của người đàn ông ngoài 20 tuổi. Đoàn Đình Long mang nỗi niềm của mình lang thang lên Lào Cai, xin làm lái xe ở mỏ Apatit, nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn, bệnh tim lại hất ông ra khỏi vị trí công việc.
Không chịu nổi cảm giác thành người vô dụng khi mới hai mấy tuổi. Ông thực sự suy sụp.
"Chỉ có cái chết mới giải thoát được!". Những ý nghĩ u tối cứ ám ảnh người thanh niên trẻ. Và trong một buổi chiều buồn, ông nhảy xuống vực, mong kết thúc những ngày sống lê thê, mệt mỏi. Nhưng số mệnh Đoàn Đình Long không thể kết thúc đơn giản như thế. Ông không chết, chỉ ngất đi. Những người bạn phát hiện và đưa ông trở lại cuộc đời.
'Nguyện vọng' được chết cũng không thành, trải qua những giờ phút bĩ cực nhất, ông quyết định đứng lên, làm lại cuộc đời. Lại qua những ngày nhờ vả, khó khăn, ông xin được làm công nhân tại Xí nghiệp Silicat. Lần này những tưởng cuộc sống đã dễ chịu hơn với Đoàn Đình Long, khi ông làm được một thời gian ổn định mà ... không bị đuổi.
Nhưng số phận ông sinh ra là để đối diện với thử thách khắc nghiệt. Lần này trái tim 'ọp ẹp' không làm ông mất việc, mà đưa thẳng Đoàn Đình Long lên bàn mổ, trở thành bệnh nhân đặc biệt nhất trong suốt sự nghiệp y học của cố GS, bác sĩ danh tiếng Tôn Thất Bách.
 Võ sư Đoàn Đình Long (thứ 5 từ phải sang) cùng các môn sinh, Ảnh Đoàn Long Karatedo.com
Hai lần "mổ phanh" và một lần "mổ moi"
Ca mổ thứ nhất diễn ra năm 1974, do bác sĩ Tôn Thất Bách đảm nhiệm. Sau này Đoàn Đình Long vẫn đùa: đó là lần anh được 'mổ moi'. Như ông giải thích, 'mổ moi' nghĩa là cách mổ qua đường xương sườn, vết mổ rạch từ ngực ra lưng, lật xương sườn lên để lộ quả tim ra. Trong điều kiện y tế những năm đó quá thiếu thốn, ông bị nhiễm trùng. Vết mổ loét rộng ra. Toàn bộ tĩnh mạch hai tay bị viêm tắc khiến hai cánh tay gần như bị liệt cho đến một ngày sáu tháng sau, ông tự ngồi dậy trước sự ngỡ ngàng của nhiều người.
Suốt nửa năm lấy bệnh viện là nhà ấy, một cô y sinh năm thứ 5 đã lặng thầm đem lòng yêu người bệnh nhân đặc biệt, sau là người bạn đời của cô.
Chỉ ba tháng sau khi xuất viện, Đoàn Đình Long quay lại với xấp thiệp mời trên tay, cô dâu không ai khác chính là cô y sinh, người sau này không chỉ là bạn đời, mà còn là 'bác sĩ riêng' suốt đời của ông.
Khi thực hiện ca mổ, dù không nói ra nhưng cố GS Tôn Thất Bách và nhiều giáo sư đầu ngành cũng chắc mẩm Đoàn Đình Long chỉ sống thêm từ 5 đến 7 năm nữa trong điều kiện được nghỉ ngơi. Nhưng Đoàn Đình Long có lẽ là mẫu người duy nhất luôn làm ngược lại những cấm kỵ bệnh tật.
Không chỉ lấy vợ, rồi vật lộn với cuộc sống nuôi gia đình, và thay vì ngồi yên nghỉ ngơi như những bệnh nhân tim khác, Đoàn Đình Long tìm đến võ đường tập, hy vọng có thể cải thiện sức khỏe. Thế rồi với ý chí mãnh liệt, bản lĩnh sắt đá, ông quyết tâm đánh đổi 'mấy năm còn lại' của cuộc đời lấy nghiệp võ; để rồi không hiểu chính nghiệp võ hay định mệnh nào đã khiến ông mạnh mẽ. Ông không những sống sót cùng trái tim bệnh tật, mà còn có sự nghiệp võ học rực rỡ, khiến sau này khi gặp lại, GS Tôn Thất Bách hết sức ngỡ ngàng.
Ông lần lượt là võ sinh Karatedo mang huyền đai đệ tam đẳng, võ sư, huấn luyện viên - Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Hà Nội, huấn luyện viên đội tuyển Công an nhân dân, rồi trở thành huấn luyện viên trưởng đội Karatedo quốc gia. Tài sản tinh thần ông vô cùng tự hào là những mảng tường treo kín huy chương của chính ông và học trò từ những cuộc thi thể thao trong ngoài nước.
 Võ sư Đoàn ĐÌnh Long (thứ 3 từ trái sang) vào Huế thi nhị đẳng tại võ đường 116 Chi Lăng năm 1988, Ảnh Đoàn Long Karatedo.com
Tại SEA Games 1993, trái tim bệnh tật của người HLV trưởng tưởng chừng không thể chịu nổi trước hai niềm vui quá lớn khi học trò ruột Nguyễn Anh Tuấn, Trần Văn Thông đoạt hai HC vàng, nhờ đó mà đoàn thể thao Việt Nam xếp ở vị trí thứ 6, vượt qua Myanmar.
Năm 1994, trước khi dẫn đội tuyển Việt Nam sang Nhật tham dự ASIAD tổ chức tại thành phố Hiroshima, Đoàn Đình Long khiến cánh phóng viên và nhiều người nghi hoặc với phát ngôn: sẽ có giải trong đợt này, vì trên thực tế đến thời điểm đó, Việt Nam chưa bao giờ vượt qua được người Nhật trong môn thể thao xuất thân từ chính quốc gia này.
Thế nhưng, các võ sinh của ông đã làm nên lịch sử với 2 HCB, đánh dấu lần đầu tiên Karatedo Việt Nam 'vuốt mặt' người Nhật. Không những thế, Đoàn Đình Long cũng là một trong những người đầu tiên tìm hiểu và đưa Pencatsilat vào Việt Nam, góp phần làm cho bộ sưu tập huy chương của thầy trò ông thêm phong phú.
Nhưng cũng chính chuyến đi này là lần thứ hai đưa Đoàn Đình Long trở lại... bàn mổ của GS Tôn Thất Bách. Ngay từ khi ở Hiroshima, ông đã cảm thấy sức khỏe có vấn đề. Kết thúc chuyến đi, việc đầu tiên là vào viện.
GS Tôn Thất Bách đã hết sức ngỡ ngàng khi gặp lại người bệnh nhân 20 năm trước, người mà ông đã nghĩ chỉ sống được 5 - 7 năm nữa.
Ca 'mổ phanh' đầu tiên kéo dài 8 tiếng. Khi mở lồng ngực của ông, GS Tôn Thất Bách cùng đồng sự phải thay lưỡi cưa vì chiếc lưỡi cưa bị mẻ khi cưa xương ức. Bản thân GS Bách cũng chưa bao giờ gặp một ca như vậy, lồng ngực cứng như thép của một võ sư.
Trái tim của Đoàn Đình Long được đưa ra khỏi lồng ngực hơn 4 tiếng và được bảo quản lạnh để GS Tôn Thất Bách thay hai chiếc van tim hỏng bằng van sinh học (van tim của động vật).
Ca mổ thành công trong sự vui mừng khôn tả của gia đình, bạn bè và những người học trò của ông. Những người đã xếp hàng dài để tiếp máu cho người thầy đầy bản lĩnh.
Thế nhưng, khác với lần trước, khi các bác sĩ dự liệu trái tim ông chỉ chịu được 5 - 7năm nữa thì Đoàn Đình Long sống tiếp 'một mạch' 20 năm sau.
Lần thứ hai, khi đặt hai chiếc van sinh học vào tim ông, GS Bách và đồng sự hy vọng nó sẽ yên ổn ít nhất trong 20 năm. Thế nhưng chỉ 7 năm sau, năm 2001, Đoàn Đình Long lại phải lên bàn mổ. Hai chiếc van sinh học đã không được tốt như ông và GS Bách mong đợi.
Lần này bên cạnh GS Bách còn có một trợ lý đắc lực là học trò, đồng thời đồng nghiệp của ông là bác sĩ Dương Đức Hùng cùng tham gia ca mổ. Sau này BS Hùng kể lại trong ca mổ kéo dài gần 10 tiếng, họ đã phải 'cắt, xẻo, gọt, vá...' trái tim tội nghiệp của ông. Thời gian và cường độ làm việc của một võ sư đầy nhiệt huyết và những vết sẹo từ cuộc phẫu thuật trước làm trái tim Đoàn Đình Long sần sùi lão hóa.
Lần này là van tim bằng kim loại. Những tiếng lạch xạch như đồng hồ chạy phát ra từ lồng ngực Đoàn Đình Long -người ngồi cạnh cũng có thể nghe thấy - đi theo ông suốt đời.
Không chỉ là bệnh nhân đặc biệt của cố GS Bách, mà có lẽ Đoàn Đình Long cũng là trường hợp hy hữu các bác sĩ bệnh viện Việt Đức chưa từng gặp. Qua mỗi ca mổ, lại nghe các bác sĩ kể về 'cái chết' của ông. 'Thực tế là tôi đã chết ba lần rồi. Lần thứ nhất đang mổ thì tìm ngừng đập phải cấp cứu; lần thứ hai cũng vậy; lần thứ ba khi bác sĩ vừa cưa xương ức thì tim đã ngừng đập. Các bác sĩ đã phải làm hết sức để cứu nó", 'người bệnh nhân vĩ đại' chia sẻ.
Thế nhưng khi tạm yên ổn với trái tim được mổ lần thứ ba, chỉ vài năm sau ca phẫu thuật thì Đoàn Đình Long lại bùi ngùi tiễn đưa GS Tôn Thất Bách, người ân nhân, người bạn đã ba lần giành giật sự sống cho ông qua đời cũng vì bệnh tim.
Nhà sử học Dương Trung Quốc chúc mừng võ sư Đoàn Đình Long trong ngày ông ra mắt hệ phái 14/11/2010, Ảnh Trần Việt Đức |
|
đăng 19:27 24 thg 10, 2011 bởi Người dùng không xác định
[
đã cập nhật 21:52 14 thg 11, 2011
]
Cuộc khởi nghĩa Đoàn Hữu Trưng xảy ra vào ngày 16 tháng 9 năm
1866 do Đoàn Hữu Trưng (còn được gọi là Đoàn Trưng) khởi xướng, có thể gọi là
một cuộc đảo chính lần thứ ba dưới triều vua Tự Đức (lần thứ nhất do Hồng Bảo
mưu sự vào năm 1854. Việc không thành, ông chết thảm trong ngục. Lần thứ hai do
Hồng Tập mưu sự vào năm 1864. Việc không thành, ông cũng bị hành hình).
Những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tin rằng việc đưa Đinh Đạo (tức Ưng Đạo,
con trai trưởng của Hồng Bảo) lên thay Tự Đức sẽ cải thiện được tình hình rối
ren trong nước và công cuộc kháng Pháp sẽ hiệu quả hơn.
Do lực lượng khởi nghĩa dùng chày vôi (dụng cụ lao động) làm vũ khí, nên sử nhà
Nguyễn và người dân quen gọi sự kiện này là “Loạn chày vôi” hoặc “Giặc chày
vôi”.(1)
I.Nguyên nhân:
Tự Đức lên ngôi trong lúc chế độ phong kiến ngày càng mục nát, kiệt quệ và cuộc
sống của người dân vốn chịu nhiều tai ách đã hết sức cùng cực. Thiên tai, dịch
bệnh xảy ra nhiều năm liền, loạn lạc nhiều nơi, thực dân Pháp đang lấn chiếm
nước Việt và nội bộ hoàng tộc cũng đang ran vỡ, phân hóa trầm trọng.
Nhắc lại, trước cuộc khởi nghĩa của Đoàn Trưng, triều Tự Đức đã xảy ra hai sự
kiện gây rạn vỡ lớn, đấy là vụ Hồng Bảo (1854) và vụ Hồng Tập (1864, xem chú
thích 2). Đến lần này Đoàn Hữu Trưng, vẫn đứng về phía những người chủ chiến và
những người dân bị bóc lột, bị áp bức. Bởi ông nhận thấy cần phải thay thế Tự
Đức, bằng một ông vua yêu nước tiến bộ khác, mới có thể chỉnh đốn và bảo vệ
được đất nước trước họa ngoại xâm.
 Lăng Tự Đức
II. Diễn biến:
Khởi đầu, Đoàn Hữu Trưng xin ra khỏi Ký Thưởng viên của cha vợ là Tùng Thiện
Vương, đồng thời trả vợ là Thể Cúc với cớ “ bất kính với cha mẹ chồng” (rất có
thể đây chỉ là cái cớ, phòng khi cuộc khởi nghĩa thất bại, vợ và gia đình bên
vợ ít bị liên lụy. Theo Đỗ Bang, sách dẫn bên dưới, tr. 137).
Được tự do, Đoàn Hữu Trưng liền “rượu sớm trà trưa” để có dịp kết giao với
những người cùng chí hướng.
2.1 Bước I: Đông Sơn thi tửu hội:
Có lẽ, Đông Sơn thi tửu hội ra đời trong khoảng từ 1864-1865 với chủ trương
“uống rượu, ngâm thơ, tiêu khiển phóng khoáng”. Nhưng thực tế, tổ chức này
chính là “bộ tham mưu” của cuộc khởi nghĩa, còn chuyện “thơ rượu” chẳng qua chỉ
là vỏ bọc để che mắt những quan lại, sai nha khác chính kiến đang rình rập khắp
nơi...
Buổi đầu, hội có năm người gồm Đoàn Hữu Trưng (đứng đầu) và hai em ruột là Đoàn
Tư Trực, Đoàn Hữu Ái cùng hai người bạn thân thiết là Trương Trọng Hòa và Phạm
Lương.
Sách lược thầm kín của của hội là tôn phù Đinh Đạo lên ngôi vua và tôn Tự Đức
lên làm Thái thượng hoàng:
“...Trước tôn vua Thái thượng hoàng,
Sau tôn ngũ đại đồng đường lên ngôi...” (trích Trung nghĩa ca của Đoàn Hữu Trưng.)
Để rồi:
“...Trong trừ tả đạo cho thanh,
Ngoài cùng Tây tặc tranh giành một phen...”(tả đạo ám chỉ đạo Thiên Chúa, Tây
tặc chỉ thực dân Pháp. Trích Trung nghĩa ca của Đoàn Hữu Trưng.)
2.2 Bước II: Tuyên truyền, vận động:
Theo sách lược trên, ba anh em họ Đoàn đã thực hiện được những việc:
- Đoàn Tư Trực: khảo sát tình hình nội thành, cải trang thành người bán sách để
bí mật gặp Đinh Đạo đang bị quản thúc trong cung.
Đỗ Bang cho biết khi vào được trong cung, Đoàn Tư Trực đã kết nghĩa với Đinh
Đạo. Dự kiến Tư Trực sẽ tìm cách giải thoát cho Đinh Đạo và đưa ông vào Nam gặp
Trương Định, để cùng kháng Pháp...(sách ghi bên dưới, tr. 141). Phạm Văn Sơn
cho biết “ năm Tự Đức thứ 17 (1864) nhân vì phát giác ra vụ án của tên nghịch
Võ Tập nên lại phải giam vào ngục tối ở phủ Thừa Thiên. Đinh Đạo giam riêng một
nơi...”(sách ghi bên dưới, tr.24). Như vậy, việc gặp mặt này nếu có, chắc chắn
phải xảy ra trước khi Đinh Đạo và ba em bị giam cầm trong ngục tối.
- Đoàn Hữu Ái: năm 1885, cạo đầu giả làm nhà sư, để lôi kéo các sư sãi và một
số tín đồ Phật Giáo, vốn rất được xem trọng ở Huế, vào tổ chức. Đặc biệt, là đã
vận động được sư Nguyễn Văn Quý, trụ trì chùa Long quang có chùa riêng là Pháp
Vân (chùa Khoai), nhận giúp mấy việc: làm “quân sư” cho hội Đông Sơn, cho hội
mượn chùa làm cơ sở bí mật dùng để hội họp, chế tạo khí giới, may cờ và sẽ là
bản doanh khi cuộc khởi nghĩa nổ ra.
Đây là một thành công lớn của hội, vì thuở đó, nơi chùa Pháp Vân tọa lạc là một
vùng đồi núi hiểm trở, đi lại rất khó khăn, ít người lui tới. Chùa Pháp Vân
cách kinh thành 5 km, chỉ cách Vạn Niên cơ (lăng Tự Đức) khoảng 1 km, nơi mà
ngày cũng như đêm luôn có khoảng ba ngàn quân lính, phu thợ đang chịu khổ sở vì
việc xây lăng.
Bấy giờ, trong dân gian có câu: “Vạn Niên là Vạn Niên nào? Thành xây
xương lính, hào đào máu dân”. Và câu: “Một thằng Biện Chất nên ghê, Xem quân
như cỏ chẳng hề xót thương”. Phạm Văn Sơn nhận xét: Hai câu này có ý khích động
lòng công phẩn của nhân dân. Nhưng chưa dễ là của nhân dân mà có thể là do phe
đảo chính tung ra.(sách dẫn bên dưới, tr.19). Và đây chính là đối tượng cần
tuyền truyền, để trở thành lực lượng nồng cốt cho cuộc khởi nghĩa.
- Đoàn Hữu Trưng: lôi kéo được các quan lại cao cấp nhận làm nội ứng, chuẩn bị
được hàng trăm chiếc thuyền chờ sẳn khi khởi sự ở bến đò Trường Súng...
Nhờ công tác tuyên truyền, vận động, hội có thêm một số người tham gia, như:
Tôn Thất Cúc (hữu quân), Tôn Thất Giác (vệ úy), Lê Chí Trực (đội trưởng), Lê
Văn Cơ (đội trưởng), Bùi Văn Liệu (suất đội), Lê Văn Tề (lính vũ lâm), Nguyễn
Văn Quí (nhà sư trụ trì chùa Long Quang, có chùa riêng là Pháp Vân), Nguyễn Văn
Viên (nhà sư), Nguyễn Văn Lý (nhà sư) v.v...
2.3 Bước III: Khởi nghĩa:
Sau khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, bộ chỉ huy do Đoàn Hữu Trưng lãnh
đạo quyết định chọn đêm 16 rạng ngày 17 tháng 9 năm 1866, là ngày hữu quân Tôn
Thất Cúc trực ở kinh thành và suất đội Bùi Văn Liệu đã có mặt ở công trường Vạn
Niên, làm thời điểm xuất kích.
Để có cớ tập trung đông người, Đoàn Hữu Trưng bàn với mẹ và vợ Đinh Đạo xin lập
đàn chay cho Hồng Bảo. Lúc này Hồng Bảo chết đã lâu và các con ông đều đã bị
giam cầm, nên nhà vua chấp thuận.
2.3.1 Đến Vạn Niên cơ:
Buổi lễ cúng kéo dài đến ngày thứ ba, khoảng 3 giờ sáng, ngày 16 tháng 9 năm
1866, từ lễ đàn Pháp Vân, Đoàn Hữu Trưng dẫn đầu đoàn quân khởi nghĩa kéo sang
công sở Vạn Niên. Ông tự xưng tham tri bộ Công, ngồi trên chiếc võng điều có
lọng che và lính hầu quạt theo lệnh vua để khám xét công trường. Bắt hai tên
đốc công cay nghiệt là Nguyễn Văn Chất (ngẫu nhiên đêm hôm ấy ông Chất lén về
thành nên thoát nạn) và Nguyễn Văn Xa, điều về kinh trị tội. Còn các binh phu
hễ ai đang cầm chày giã vôi trong tay thì được đổi phiên về nghỉ. Binh phu nghe
nói cả mừng đổ xô vào bắt thống chế Xa trói lại rồi vác chày vôi theo.
Đội trưởng Lê Văn Cơ và Nguyễn Tăng Hựu do nhận lời làm nội ứng từ trước nên
cũng dẫn quân gia nhập.
Với lực lượng hơn ba ngàn người, nghĩa quân được chia đều làm 3 đạo:
-Tiền đạo: Đoàn Tư Trực và Nguyễn Văn Vũ chỉ huy.
-Trung đạo: Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Ái và Phạm Lương chi huy.
-Hậu đạo: Trương Trọng Hòa và nhà sư Nguyễn Văn Quí chỉ huy.
Tất cả đoàn quân trên trương cao lá cờ “Ngũ đại hoàng tôn”, từ công trường Vạn
Niên nhanh chóng vượt sông Hương.
2.3.2 Vào Đại Nội:
Vào cuối canh năm, sau khi nghe mấy phát súng hiệu ở Kỳ Đài (kinh thành Huế)
nổ, báo hiệu các cửa thành được mở. Lập tức tiền và trung đạo tiến đến cửa Hữu
(Tây Nam), vào Ngọ Môn (hoàng thành Huế) rồi rẽ qua hai bên đến các kho Kim Ngô
và Cẩm y để đoạt vũ khí. Khi ấy, hữu quân Tôn Thất Cúc cũng vừa mở Đại Cung Môn
(kinh thành Huế) để đón nghĩa quân vào. Nghe huyên náo, phó vệ úy Hùng chạy ra
ngó khiến Tôn thất Cúc phải tránh mặt. Chỉ huy sứ Phạm Viết Trang và vệ úy
Nguyễn Thịnh định đóng cửa lại thì bị chém bị thương. Quân khởi nghĩa vừa tiến
vào vừa đánh lui được quân triều.
Chiếm được Điện Cần Chánh (hoàng thành Huế) Đoàn Hữu Trưng chưa biết đâu là cửa
Tấu Môn thì chưởng vệ long võ quân Hồ Oai xuất hiện. Thấy quân nổi dậy đông
quá, Hồ Oai hoảng sợ chạy lui về cửa Điện Càn Thành (hoàng thành Huế), nơi vua
đang ngủ. Thủ lĩnh Trưng nhanh chóng đuổi theo rồi lia gươm qua khe cửa, chém
mất tai phải của Hồ Oai, nhưng viên tướng này vẫn ghì chặt cửa nên Đoàn Hữu
Trưng không vào được nơi vua ngủ.
Bắt không được vua, Đoàn Hữu Trưng cho tập trung quân tại sân Điện Thái Hoà
(hoàng thành Huế) sai Đoàn Tư Trực đến khám đường rước Đinh Đạo về tấn phong.
Nhưng Hồ Oai đã kịp thời dẫn quân đến phản công. (Đoàn Hữu Trưng truyền lệnh
thu quân mà không cho quân truy đuổi và chiếm lĩnh những nơi trọng yếu, lại lo
đem kiệu đi rước Đinh Đạo để làm lễ đăng quang là bỏ lỡ thời cơ, sơ hở về mặt
chiến đấu, là tạo điều kiện cho Hồ Oai và các tướng lĩnh khác kịp thời tập họp
binh lính, thị vệ để phản công. Dựa theo Phạm Khắc Hòe, ''Kể chuyện vua quan
nhà Nguyễn'', Nxb Thuận Hóa, 1986, tr. 67).
Điện Cẩm Chánh
2.4 Thất bại:
Quân triều do Hồ Oai cầm đầu, đánh nhau một hồi với nghĩa quân thì thủ lĩnh
Trưng phát chứng đau bụng nên chóng kiệt sức rồi bị bắt.
Đoàn Tư Trực bị Hồ Oai đâm bị thương. Đoàn Hữu Ái thấy không thể thoát thân
được, chạy vào nhà bếp của đội hộ vệ định thắt cổ nhưng cũng bị quân triều bắt
lại. (Phạm Văn Sơn kể khác: Phó vệ úy Hùng đem quân cẩm y đến Điện Thái Hòa,
thấy Hữu Ái đang ngồi bên Long ỷ (ghế tựa của vua), liền thét lớn “giặc đó”.
Quân triều nghe vậy xô nhau nhẩy tới đâm Ái gần chết. Xong, tiến vào phía trong
gặp Hữu Trưng và Hữu Trực ở ngoài Tấu Môn, hai bên đánh nhau một hồi rút cục
Trưng, Trực đều bị bắt sống. (Bổn triều bạn nghịch liệt truyện, tài liệu do
trường Viễn Đông Bác cổ tàng trữ, Phạm Văn Sơn dẫn lại, sách ghi bên dưới, tr.
26). Nguyễn Văn Vũ hốt hoảng nhảy xuống hồ Thái Dịch định tự tử, bị cử võ Nguyễn
Văn Thịnh nhảy theo kéo lên...
Khi tiền và trung đạo của nghĩa quân đều đã tan tác, hậu quân chuẩn bị vượt
sông Hương. Nhà sư Nguyễn Văn Quí biết cơ sự đã vỡ, lẻn trốn về chùa Pháp Vân
trước, còn Trương Trọng Hòa, do không biết gì nên vẫn cho quân xông vào trại
Thần Cơ, bên ngoài hoàng thành để thu khí giới, nghi trượng. Chỉ huy trại là
hiệp quản Võ Giác sau khi giao nộp mọi thứ, liền dẫn quân lính xin theo. Nhưng
khi đến cửa Chương Đức, hậu quân bị quân triều do Nguyễn Hùng, Lê Binh, Lê Sĩ
chỉ huy chặn lại. Hai bên đánh nhau quyết liệt một lát thì hàng ngũ nghĩa quân
rối loạn, Trương Trọng Hòa cũng bị bắt trói...
Ngay sau đó, một đội quân ở Đại Nội được lệnh đi ngay lên chùa Pháp Vân bắt
giam nhà sư Nguyễn Văn Quí...
III. Kết cục:
Cuộc khởi nghĩa thất bại, ba anh em Đoàn Hữu Trưng (Đoàn Hữu Trưng bị giết khi
mới 22 tuổi), Đoàn Hữu Trực, Đoàn Hữu Ái bị xử lăng trì. Đoàn Thi bị án tử
hình. Đoàn Khóa mất tích, Đoàn Hào chết, Đoàn Thị Châu bị kết án tù đày 20 năm
sau mới về... Cả họ Đoàn bị đổi sang họ Đoạn, con cháu phải lưu tán, không được
thi cử...(theo Đỗ Bang, gia đình Đoàn Hữu Trưng bị “án tru di tam tộc” , sách
trong danh mục tham khảo, tr. 152).
Tự Đức cho tịch thu gia sản của Đoàn Hữu Trưng, chỉ để lại một phần nhỏ cho bà
mẹ vì bà đã lớn tuổi lại bị mù. Thể Cúc, vợ Đoàn Hữu Trưng, nhờ trước ngày khởi
sự, bà đã bị “đuổi” về nhà bố mẹ ruột vì tội “bất kính với mẹ chồng” nên được
miễn nghị, nhưng buộc cải sang họ mẹ và phải đi tu...Đối với Tùng Thiện vương,
là chú vua và là cha vợ Đoàn Hữu Trưng, bị tình nghi có liên quan, nhưng vì
không có chứng cớ nên “sau ba ngày đêm cùng Thể Cúc phủ phục ở cửa Đông Ba để
chịu tội”, ông chỉ bị phạt truất bổng một năm, đóng cửa Ký Thưởng viên và không
được tiếp xúc với bất kỳ ai ở bên ngoài.
Đoàn Hữu Trưng và Thể Cúc có một đưa con trai tên là Ngáo. Vì quá nhỏ nên chưa
xử, đưa cho người bà con đang ở rể trong phủ Tuy Lý vương nuôi. Khoảng 13 tuổi,
Ngáo bổng dưng "mất tích" (theo gia phả, bản I. Đỗ Bang dẫn lại, sách
ghi bên dưới, tr. 152).
Cả gia đình Hồng Bảo gồm 8 người là Đinh Đạo (Ưng Đạo), Đinh Tự, Đinh Chuyên,
Đinh Tương (đều là con Hồng Bảo), Thị Thụy (vợ Hồng Bảo, mẹ Đinh Đạo) và hai
đứa con Đinh Đạo (một trai, một gái) đều bị xử giảo (treo cổ).
Hữu quân Tôn thất Cúc (Tôn Thất Cúc đã tự tử bằng thuốc độc, vẫn bị Tự Đức sai
đem xác ra lăng trì, bêu đầu và con cái đều phải đổi sang họ mẹ - theo Phạm
Khắc Hòe, sách đã dẫn, tr. 68), vệ úy Tôn Thất Giác người phải uống thuốc độc,
người thì bị chém đầu. Nhà sư Nguyễn Văn Quí bị chém bêu đầu, thiêu xác. Chùa
Pháp Vân bị triệt hạ.
Quan kinh doãn Nguyễn Văn Tường và phủ thừa Vũ Khắc Bôn đều bị cách chức, nhưng
cho lập công để chuộc tội, đề đốc Nguyễn Hữu vì mới nhậm chức nên bị giáng bốn
cấp và đổi đi nơi khác...
Để đối phó hậu quả cuộc khởi nghĩa, Tự Đức phải triệu ngay Nguyễn Tri Phương về
lo việc phòng thủ kinh thành. Đến Huế, ông thấy những người tham gia cuộc khởi
nghĩa đã lãnh án hết mà người bị tố cáo làm phản vẫn còn mãi, bèn xin vua cho
kết thúc để yên ổn lòng người...
Và cũng do biến động này, vua Tự Đức phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung.
(sau khi Tự Đức mất, được đổi tên là Khiêm Lăng) và viết bài “ biểu trần tình”
dài để biện bạch, trong đó có câu: ''dân chúng nhất thời dại dột mà nghe theo
chứ không thật tình thù oán triều đình.''
IV.Nhận xét:
Phạm Văn Sơn viết:
“...Binh sĩ và dân chúng đi theo họ Đoàn bấy giờ chỉ có tính cách tạm bợ, nên
sau tiếng quát mắng của Hồ Oai, họ rời ngay hàng ngũ. Ví thử bọn Đoàn Trưng có
thành công cũng chỉ được nhất thời mà thôi. Nắm được kinh thành Huế đâu phải là
đã nắm được toàn quốc. Lực lượng của vua Tự Đức còn nhiều võ tướng đại thần
trung thành...”
“Bảo rằng Trưng dựa vào uy tín của Hồng Bảo, của Tùng Thiện Vương và lòng căm
phẫn của dân chúng tại Huế đối với việc xây dựng Khiêm Lăng, là đủ sức mạnh để
lôi cuốn nhân tâm cà ba Kỳ thì thật quá nông cạn...''(sách trong danh mục tham
khảo, tr. 21.)
Đỗ Bang đánh giá:
“Mặc dù thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa cũng đã hiện hiện sâu sắc tinh thần yêu
nước, yêu nhân dân của Đoàn Hữu Trưng và của một số người tham gia...” (sách
trong danh mục tham khảo, tr. 154).
Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, tháng 7 năm 2008.
Chú thích:
(1) Lăng mộ xưa hay dùng ô dước (hay còn gọi là hợp chất) để xây dựng. Ô dước
gồm ba thành phần chính: cát ,vôi, chất kết dính. Trong đó, cát là loại cát
sông mịn; vôi là vôi sống, vôi tôi, vỏ nghêu sò, san hô nghiền vụn; chất kết
dính là nhựa cây ô dước, mật mía, mật ong, nhựa dây tơ hồng hoặc bời lời. Ngoài
ra, còn có chất phụ gia như: than hoạt tính, đá ong nghiền vụn, giấy dó... Mỗi
chất trên lại phải chế biến theo yêu cầu riêng. Như vôi phải là loại chưa nung,
tức vớt lấy vỏ sò, hoặc san hô ở biển về để "tươi" như thế, bỏ vào
cối bằng đá, dùng chày đẽo bằng gỗ lim là loại gỗ cứng như sắt (thiết mộc) để
giã thiệt nát, thành bột gọi là "vôi sống" (chứ "vôi chết"
đã nung sẽ không dùng được vì thiếu độ quyện chặt với các chất khác). Việc sản
xuất "vôi sống" quả là rất cực nhọc. Do lăng Tự Đức đồ sộ nên cần
nguyên liệu này rất nhiều. Nhà khảo cổ lão thành Đỗ Đình Truật kết luận: Thợ
giã vôi làm lăng do chịu đựng mưa nắng nhiều ngày và vì việc làm quá nặng nề
nên đã dùng chày vôi (dụng cụ lao động) làm vũ khí, nổi dậy chống triều đình,
bị tầng lớp quan lại gọi nôm na "giặc chày vôi" là vậy.
(2) Sau khi nhà Nguyễn phải ký hòa ước năm 1862 nhường ba tỉnh miền Đông cho
Pháp. Một số người chủ chiến không bằng lòng và không còn tin phục vua Tự Ðức
nữa. Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo (em chú bác của Hồng Nhậm tức vua Tự Đức)
một số quan lại, quí tộc theo theo đường lối kháng Pháp (phe chủ chiến), mưu sự
giết Phan Thanh Giản và Trần Tiễn Thành, bởi theo quan điểm của những người mưu
sự, hai ông này chính là đại diện của phe chủ hòa. Việc không thành, Hồng Tập
bị chém bêu đầu, những người trong hoàng tộc tham gia bị Tự Đức kết án trảm
giam hậu và bắt đổi sang họ mẹ..
|
|