Dịch phả và viết phả là việc làm sôi động của nhiều dòng Họ tại Việt Nam. Nhiều chi Họ đã dịch phả chữ nho ra quốc ngữ và viết phả mới. Song nhiều Họ chỉ làm được phả tiểu chi độ 4, 5 đời nhờ vào vị trí các cụ cao tuổi còn sống vì không có gia phả cũ để lại. Một số Họ đã viết được tộc phả từ 15 đến 20 đời. Tuy nhiên nhiều tộc phả được viết chưa hội đủ các nhánh, các chi đã di chuyển đi một số vùng, miền khác nhau vì chưa có công sưu tập tư liệu, chắp nối hệ tộc. Nhìn chung, việc viết phả của nhiều chi Họ còn đơn giản, nội dung các bản phả còn nghèo nàn vì chưa coi phả là cuốn tiểu sử của gia tộc, dòng Họ. Qua nghiên cứu các bài hướng dẫn viết phả của một số tác giả, tham khảo một số bản phả và trực tiếp viết phả, chúng tôi xin nêu ra một số gợi ý để các chi họ Đoàn ở địa phương tham khảo, vận dụng vào việc biên tập phả. Trước hết chúng ta cần thống nhất về mục đích viết phả là giúp con cháu hiện nay và mai sau biết được: - Nguồn gốc của tổ tiên và sự phát triển của dòng Họ. - Truyền thống văn hóa của các dòng Họ: đạo đức, lối sống, học tập, lao động, thành đạt....công lao của tổ tiên đối với đất nước và dòng Họ. - Các cành các nhánh, các chi họ, ngôi thứ từng người trong họ làm cơ sở giao tiếp, ứng xử đúng đắn. - Phả còn là nguồn tư liệu quý giúp bổ sung cho lịch sử quốc gia và địa phương. Dĩ nhiên mức độ tác dụng của cuốn phả còn tuy thuộc ở chất lượng của dòng Họ và công phu của người biên tập. Chúng ta hiện có 2 loại phả: gia phả và tộc phả. Gia phả là của một tiểu chi tối đa có 5 đời. Còn tộc phả là phả của một chi họ, nhánh họ hay một dòng họ có nhiều đời con cháu, có thể định cư ở nhiều địa phương khác nhau. Muốn làm tộc phả nên bắt đầu viết gia phả tiểu chi. Câu lạc bộ UNESCO thông tin các dòng Họ đang phát động và khuyến khích tất cả các Họ đều viết gia phả tiểu chi. Đây cũng là điều rất nên làm đối với Họ Đoàn chúng ta. Chúng tôi đề nghi tất cả các tiểu chi Họ Đoàn đang định cư ở bất cứ địa phương nào đều nên cử người làm gia phả tiểu chi, hay tổ chức ban biên tập phả Họ, dù có gia phả cũ để lại hay không. Đối với những tiểu chi Họ không có gia phả cũ để lại, không biết được nguồn gôc Họ từ đâu thì nên họp các cụ cao tuổi của Họ đang định cư trong thôn hoặc các thôn khác có quan hệ dòng tộc, gặp thêm các vị cao tuổi ở họ khác có quan hệ thông gia với họ Đoàn hoặc biết nhiều về Họ Đoàn để bàn bạc, tìm hiểu thế thứ của các vị đa qua đời và con cháu của các vị đó. Đồng thời, lấy những người con của Họ được sinh ra trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, để kê lên các đời trên là cha , ông, cụ, rồi đến cố....hình thành nên một hồ sơ hoàn chỉnh của tiểu chi trước khi viết phả chính thức. Từ gia phả tiểu chi 4 hay 5 đời, chắp nối lên trên với các tiểu chi đồng tộc để hình thành phả của chi Họ là khả năng sưu tầm tư liệu và nghiên cứu của người viết và quyết tâm của chi Họ đó. Nếu họ đó có gia phả bằng Hán nôm, thì dịch ra quốc ngữ. Bản dịch phải đảm bảo Đúng âm, từ Tiếng Việt, nhất là tên người, tên địa phương, nên đối chiếu với tên được bà con địa phương quen gọi và lập phả đồ cho đúng. Căn cứ vào cuốn phả được dịch, tính từ cụ tổ đầu tiên cho đến lớp con cháu hiện nay là mấy đời, hình thành bao nhiêu nhánh, chi hoặc tiểu chi Họ ở nguyên quán hay di cư ở địa phương nào. Đây là cơ sở để chúng ta định liệu việc làm phả cho từng nhánh, từng chi, trên cơ sở các phả của tiểu chi chắp nối lại. Ngoài gia phả của tiểu chi, ta hoàn toàn có thể viết phả cho từng nhánh, từng chi Họ ....hình thành hệ thống phả của một dòng họ lớn có nhiều đời.... là tùy thuộc vào yêu cầu và khả năng của từng Họ. Muốn viết gia phả hay phả tộc thì trước hết phải lập phả đồ. Phả đồ phải ghi đủ họ, tên những người con trai, con gái của họ theo đúng thế thứ : người sinh trước ghi tên trước, sinh sau ghi sau - không kể nam hay nữ - con vợ trước ghi trước, có vợ sau ghi sau- dù sinh trước. Vì phải bảo đảm ghi đầyđủ, chính xác tất cả những người con của họ và cũng do tính han hẹp của sơ đồ nên không thể ghi con dâu, con rể, cháu ngoại của Họ, phần này sẽ được bổ sung khi biên soạn phả. Hiện nay chúng ta có nhiều loại họ, to nhỏ khác nhau, từ 4 đến 20 đời hay hơn nữa. Theo thiển nghĩ của chúng tôi thì họ nào có phả Hán nôm để lại chúng ta cũng chỉ có thể và nên làm một phả tộc tối đa là 20 đời, là phả của một dòng họ đã tồn tại và phát triển từ 500 đến 550 năm. Đây được coi là một công trình khá lớn nếu ta dày công sưu tầm tư liệu và biên tập, và là một tài sản quý giá đối với con em trong họ. Để làm một tộc phả nhiều đời, chúng ta lấy chi họ 5 đời làm cơ sở để phân ra thành cành, nhánh chi và tiểu chi tùy thuộc quy mô to, nhỏ của từng họ. Nếu họ có 20 đời thì họ đó có đủ cành, nhánh, chi và tiểu chi. Những người sinh ra trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20 là đời thứ 20, trưởng tiểu chi họ là người thuộc đời thứ 16 hoặc 17; trưởng chi họ là những chủ gia đình từ đời thứ 11 đến thứ 15; Trưởng nhánh họ là những chủ gia đình thuộc đời thứ 6 đến đời thứ 10; trưởng cành họ là những chủ gia đình thuộc đời thứ 2. Trong mỗi một đời, ai thuộc cành nhánh, chi hay tiểu chi nào thì phải để đúng vị trí, thứ bậc của người đó. Đánh số thứ tự và để trong vòng tròn những ngươi con trai là chủ gia đình trong mỗi đời. Đánh số thứ tự số con của mỗi gia đình. Nếu trong nhánh, trong chi, trong tiểu chi có người nào đó không có con kế tục đời sau thì số thứ tự của nhánh, chi hay tiểu chi đó mất đi. Sơ đồ Họ có thể làm theo 2 cách: Mẫu 1 là hồ sơ một tiểu chi 5 đời tương đối ít nhân khẩu. Mẫu 2 là sơ đồ chi họ có 9 đời. Dung lượng của sơ đồ sau này khá lớn, nếu dùng giấy khổ rộng có thể ghi đủ số người của một chi họ lớn (xem 2 sơ đồ kèm theo). Họ có từ 16 đời trở lên thì sơ đồ chỉ có thể tên trưởng cành, trưởng nhánh, trưởng chi, Trưởng tiểu chi mà không thể ghi hết tên những người trong họ, tuy nhiên nếu họ có người con trai nào, bất cứ thuộc đời nào đi lập nghiệp ở địa phương khác, hình thành nên nhánh hay chi họ ở nơi đó thi phải ghi rõ trên sơ đồ. Sau khi làm xong sơ đồ tiểu chi hay cả chi họ cần công bố rộng rãi cho bà con trong họ biết, tham gia ý kiến bổ sung trước khi viết phả. Cần thấy rằng thành công của cuốn phả phụ thuộc vào độ chính xác đáng tin cậy của sơ đồ, do đó phải hoàn chỉnh sơ đồ rồi mới biên soạn phả.
Nội dung một cuốn phả
Thực chất của việc biên tập phả là làm tiểu sử của Họ, dù tiểu sử của tiểu chi họ có 4, 5 đời (đợc coi là tiểu sử gia đình) hay tiểu sử của một chi, một dòng Họ có nhiều đời thì nội dung cũng không khác nhau là mấy.
Trong họ có cuốn phả nên có 5 phần. Độ dài của từng phần tuy theo sự phát triển phong phú của từng loại Họ.
Phần1: Lời tựa: Ghi 1 số ý sau đây:
- Mục đích viết phả - Nói về thế thứ, học vị, chức danh ngời biên tập chính của phả Họ - Phơng hớng biên tập: dựa trên phả cũ của cụ nào để lại, trên cơ sở phả của các chi, các tiểu chi họ, các t liệu... với sự tham gia đống góp của bà con trong họ. - Mong muốn của ngời biên soạn phả.
Phần 2: Sơ luợc nguồn gốc, quá trình phát triển của dòng Họ (hay chi Họ) Phần này khái quát sự phát triển của dòng Họ từ cụ tổ đầu tiên có nguồn gốc từ đâu, phát triển đến nay đợc bao nhiều đời (có ghi mốc quan trọng trong sự phát triển của họ, đối với lịch sử qua các triều vua - cả năm âm và năm dơng), có sự di c từ nơi này qua nơi khác của các vị tiên tổ, đẫ phát triển hoặc tiêu vong nh thế nào. Phần này chỉ nêu những nét lớn, những chuyển biến, thăng trầm nổi bật trong sự phát triển của dòng Họ, của từng chi Họ, mà không ghi chi tiết từng ngời.
Phần 3: Hệ thống các thế hệ của dòng Họ (hay chi họ)
Phần này ghi chép với thân thế, sự nghiệp tóm tắt của từng ngời trong Họ theo thứ tự từng đời (căn cứ theo sơ đồ ). Từng nguời con của Họ phải ghi nh một lý lịch trích ngang: Họ tên, chữ lót, tên tự tên húy, bí danh, danh xng đúng nh trong gia phả cũ đã viết; ngày tháng năm sinh cả âm và dơng lịch, Học vấn ghi bằng cấp cao nhất ( nếu có ); nghề nghiệp: chi nghề chính, sở trờng, làm lâu nhất. Chức vụ, phẩm hàm: ghi một số chức danh cao nhất . Khen thởng: ghi danh hiệu cao quý nhất mà nhà nớc ban tặng ( không ghi các phần thởng theo niên hạn ). Ngày mất, nơi an táng, mộ chí, bia, từ đờng(nếu có). Tiếp đó là ghi tên con trai thì ghi họ, tên vợ, quê quán; họ tên và chức vụ chính của bố vợ, công việc và chức danh quan trọng nhất (nếu có) của ngời vợ. Nếu có vợ 2, vợ 3 cũng ghi nh trên. Nếu là ngời con gái của Họ thi ghi tên, quê quán ngời chồng, họ tên và chức vụ chính của bố chồng (nếu có). Công vịêc và chức danh quan trọng nhất (nếu có) của ngời chồng. Ghi họ tên các con của ngời con gái Họ ( tức cháu ngoai họ Đoàn ), trong số này nếu có ngời nào đỗ đạt cao, có tài, có chức danh quan trọng có thể chi thêm. Phần này cần ghi gọn, rõ ràng, không tham chi tiết. Nếu trong Họ có ngời bị can án hoặc có thành tích bất hảo, làm ảnh hởng xấu đến dòng Họ cũng cần ghi thực tế hành vi và hậu quả. Nếu khắc phục đợc trở nên lơng thiện, tốt đẹp, lập đợc công lao thi ghi cố gắng đó. Về điểm này nên suy nghĩ thật thận trọng để ghi có mức độ, vừa phải, ai cũng dễ dàng chấp nhân.
Phần 4: Viết về sự tích và truyền thống quý báu của dòng Họ.
Phần này có 2 nội dung: Một nội dung viết về thên thế, sự nghiệp của các vị tiên tổ theo thứ tự từng đời, thực chất là kể về các danh nhân, những ngời có công lao đối với sự phát triển và làm vẻ vang cho dòng Họ bằng những tài liệu, t liệu chính xác có sức thuyết phục cao. Nội dung thứ 2 viết về truyền thống quý báu của dòng Họ nh nề nếp gia phong, hiếu học, cần cù lao động, đạo đức, lối sống trong quan hệ gia đình, họ hàng, làng nớc. Căn cứ vào ngời thật, việc thật các vị tiên tổ trong Họ trớc bối cảnh lịch sử, xã hội nhất định mà đúc kết lại để làm bài học cho các thế hệ sau. Tuy là 2 nội dung song có thể viết hòa quyện vào một, tùy tình hình thực tế của từng Họ, hay chi họ và nhận thức cũng nh khả năng ngời viết.
Phần 5: Lời kết
Đây là phần cảm nghĩ và mong muốn của ngời viết sau khi làm xong cuốn phả: nói lên niềm tự hào của con cháu đối với tổ tiên, ớc mong về sự phát triển tốt đẹp của con cháu trong học tập,lao động, phấn đấu làm vẻ vang cho dòng Họ. Nhắc nhở về bổn phận giữ gìn phả Họ, tiếp tục tìm hiểu, xác minh, bổ sung những chỗ còn cha đầy đủ, chua rõ ràng trong phả Họ.
Cuối cùng: Phần phụ lục
Phần này kể về những giai thoại, truyền thuyết (nếu có) của tổ tiên nhng không chép đợc trong phần 4. Viết hoặc sao chụp các chứng tích nh phần đầu bản phả hán nôm, di chúc, câu đố, bia, tợng, từ đờng, văn thơ,.....bằng cả hán nôm và quốc ngữ (có phiên âm dịch nghĩa) và cả những t liệu, tài liệu mà ta đã dùng để biên soạn phả Họ. Một điều cần chú ý khi viết phả: Biên soạn gia phả là viết sử chứ không phải viết văn. Văn của phả là phải ngắn gọn, giản dị sáng sủa, dùng từ, đặt câu phải chính xá, rõ ràng, dễ hiểu, tránh dùng những từ hán việt không còn thông dụng hiện nay, gây cho ngời đọc khó hiểu.
* * *
Sau khi viết xong (dự thảo) có thể tổ chức họp với các vị là chi trởng hay tộc trởng của các tiểu chi, các cụ cao tuổi, một số ngời có kiến thức trong Họ để tham gia ý kiến. Tùy theo quy mô của dòng Họ, hia phả cầ viết thêm hoặc in ra nhiều bản gửi về các tộc trởng lu giữ, bảo quản để con cháu trong dòng Họ khi cần thiết đến tìm hiểu. Những ngời có trách nhiệm chính trong việc biên tập phả Họ phả cần ký vào phả Họ (sau lời kết). Riêng gia phả tiểu chi (4 đến 5 đời ) cần giao cho ngời có trách nhiệm chính trong tiểu chi, thờng xuyên bổ sung các thông tin về Họ nh ngời sinh, ngời mất, thay đổi về lý lịch của từng ngời... không để phả tiểu chi bi lạc hậu do sự diễn tiến trong Họ. Trên đây chỉ là gợi ý của th ký Ban liên lạc Họ Đoàn toàn quốc. Trong quá trình biên tập phả Họ có gì thắc mắc hoặc kinh nghiệm tốt mong quý vị góp ý, bổ sung.
Tổ Thư Ký Một gia phả hoàn chỉnh bao gồm những phần sau đây · Trước hết, phải có thông tin về người sao lục (biên soạn ) là ai, tên gì, thuộc đời thứ mấy, triều vua nào, năm nào… và tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng. · Tiếp theo, là phả ký hay là gia sử. Nêu nguồn gốc xuất xứ của gia tộc. · Tiếp theo, là Thuỷ tổ của dòng họ. · Sau đó, là từng phả hệ phát sinh từ Thuỷ Tổ cho đến các đời con cháu sau này. Đây là phần quan trọng nhất của gia phả. Có phần phả đồ, là cách vẽ như một cây, từng gia đình là từng nhánh, từ gốc đến ngọn cho dễ theo dõi từng đời. Đối với tiền nhân có các mục sau đây:
Tiếp theo, là tộc ước. Đây là những quy định-quy ước trong tộc họ, đặt ra nhằm ổn định tộc họ, có công thưởng, có tội phạt , tất nhiên là phải phù hợp với luật pháp chung. · Với một tộc họ lớn, có thể có nhiều tông nhánh, chi phái. Phần này sẽ ghi những thông tin chi phái, ai là bắt đâu chi, chi hiện ở đâu, nhà thờ chi… · Những thông tin khác về tài sản hương hỏa, bản đồ các khu mộ tiền nhân v.v. |
THƯ VIỆN >